Thứ Bảy, 5 tháng 12, 2009

Làm Cách Nào Đoạn Tận Khổ Đau


Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Đấng Chánh Đẳng Giác

LÀM CÁCH NÀO ĐỂ ĐOẠN TẬN KHỔ ĐAU

Quý vị có muốn đoạn tận khổ đau không? Nếu muốn, xin quý vị hãy lắng nghe bài Kinh Kūṭāgāra, Kinh “Ngôi nhà có nóc nhọn” trong Tương ưng Sự Thật:

Bài Kinh Kūṭāgāra

Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ tập, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ diệt, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ chơn chánh đoạn tận khổ đau"; sự kiện này không xảy ra.
Ví như, này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Không xây dựng tầng dưới của ngôi nhà có nóc nhọn, tôi sẽ xây dựng tầng trên của ngôi nhà", sự kiện này không xảy ra. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ Tập, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ Diệt, không có như thật giác ngộ Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ chơn chánh đoạn tận khổ đau"; sự kiện này không xảy ra.
Ví như, này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Sau khi xây dựng tầng dưới của căn nhà có nóc nhọn, tôi sẽ xây dựng tầng trên của ngôi nhà"; sự kiện này có xảy ra. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: "Sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ tập, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Khổ Diệt, sau khi như thật giác ngộ Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, ta sẽ đoạn tận khổ đau"; sự kiện này có xảy ra.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ", một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ tập, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Khổ diệt", một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt"”.
Để thoát khỏi vòng luân hồi, biết rõ Tứ Thánh Đế là hết sức quan trọng. Điều này được trình bày trong Kinh Koṭigāma trong Tương Ưng Bộ Kinh:

Kinh Koṭigāma

Một thời Thế Tôn trú giữa các dân chúng Vajjī, tại Koṭigāma.Tại đấy, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
Này các Tỷ-kheo, do không hiểu rõ và thể nhập bốn Thánh đế mà Ta và các Ông đã phải dong ruổi, lưu chuyển trong vòng luân hồi dài đằng đẵng bấy lâu nay”. Thế nào là bốn?
Do không hiểu rõ và không thể nhập Thánh đế về Khổ, này các Tỷ-kheo, nên các ông và Ta đã phải dong ruổi, lưu chuyển trong vòng luân hồi dài đằng đẵng bấy lâu nay, do không hiểu rõ và không thể nhập Thánh đế về Khổ tập, do không hiểu rõ và không thể nhập Thánh đế về Khổ diệt, do không hiểu rõ và không thể nhập Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt, này các Tỷ-kheo, nên các Ông và Ta đã phải dong ruổi, lưu chuyển trong vòng luân hồi dài đằng đẵng bấy lâu nay.
Nhưng nay, này các Tỷ-kheo, Thánh đế về Khổ này đã được hiểu rõ, đã được thể nhập, Thánh đế về Khổ tập đã được hiểu rõ, đã được thể nhập, Thánh đế về Khổ diệt đã được hiểu rõ, đã được thể nhập, Thánh đế về Con Ðường đưa đến Khổ diệt đã được hiểu rõ, đã được thể nhập. Hữu ái đã bị chặt đứt, những gì đưa đến tái sanh đã bị tận diệt (bhavanetti). Nay không còn tái sanh nữa.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi thuyết giảng như vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Catunnaṃ ariyasaccānaṃ, yathābhutaṃ adassanā;
saṃsitaṃ dīghamaddhanaṃ, tāsu tāsveva jātisu.

Tāni etāni diṭṭhāni, bhavanetti samuhatā,
ucchinnaṃ mulaṃ dukkhassa, natthi dāni punabbhavo
." --

Do không như thật thấy,
Bốn sự thật bậc Thánh,
Phải lâu ngày luân chuyển,
Trải qua nhiều đời sống.

Khi chúng được thấy rõ,
Mầm tái sanh nhổ sạch,
Gốc khổ được đoạn tận,
Nay không còn tái sanh.”

Sự Thật Cao Thượng về Khổ (Khổ Thánh đế)

Gì là Thánh đế về Khổ (dukkha-sacca)? Trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân Dhammacakkappavattana, Đức Phật đúc kết nó một cách tóm gọn như thế này: “Nói tóm lại, ngũ thủ uẩn này là khổ.”. Ngũ thủ uẩn này là các đối tượng của Tuệ quán.
Gì là ngũ thủ uẩn? Chúng là: Rūpupādānakkhandhā, Vedanupādānakkhandhā, Saññupādānakkhandhā, Saṅkhārupādānakkhandhā, Viññāṇupādānakkhandhā, nghĩa là Sắc thủ uẩn, Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn.
Gì là Sắc thủ uẩn? Trong bài Uẩn Kinh trong Tương Ưng Uẩn (S22, 48) Đức Phật dạy:
Yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppannaṃ ajjhattaṃ vā bahiddhā vā olārikaṃ vā sukhumaṃ vā hīnaṃ vā panitaṃ vā yaṃ dūre santike vā sāsavaṃ upādaniyaṃ ayaṃ vuccati rūpūpādānakkhandho.
Đây là lời giải thích của Đức Phật. Nghĩa của nó là:
Phàm có sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, thuộc nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, có lậu hoặc, được chấp thủ; đây gọi là Sắc thủ uẩn.
Tương tự vậy, Đức Phật giải thích về Thọ thủ uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn và Thức thủ uẩn. Vì vậy quý vị nên liễu tri rằng các Pháp Khổ đế (Pháp gắn liền với Khổ đế) không chỉ bao gồm năm uẩn thủ hiện tại mà cả năm thủ uẩn quá khứ và tương lai, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần.
Tại sao năm uẩn này lại bị chấp thủ? (Khi năm uẩn bị chấp thủ gọi là năm thủ uẩn). Thân và tâm của chúng sanh chỉ bao gồm năm uẩn. Do vô minh, các chúng sanh phàm phu nhận định sắc là “ta”, “của ta” hay “ta là thế”. Từ đây, tham ái và chấp thủ vào sắc sinh khởi. Tương tự, do ngộ nhận thọ, tưởng, hành, thức là “ta”, “của ta” và “ta là thế” mà tham ái và chấp thủ vào các uẩn này khởi sinh. Đấy là cách mà năm uẩn bị chấp thủ với hàng phàm nhân do chưa thấy rõ các Pháp như thật. Thật ra ngoài các tâm hành siêu thế ra, tất cả các uẩn đều bị chấp thủ.
Không chứng ngộ bốn Thánh đế, ta không thể đạt đến Niết-bàn. Nếu muốn đạt đến Niết-bàn, quý vị nên gắng chứng ngộ Niết-bàn. Trong số bốn Thánh đế có Khổ thánh đế, Khổ thánh đế bao gồm mười một loại năm thủ uẩn đã đề cập trên đây. Vì thế để thoát khỏi vòng luân hồi, quý vị nên gắng liễu tri tất cả chúng.

Khổ Tập Thánh Đế
(Sự Thật Về Nguyên Nhân Của Khổ)

Gì là Khổ Tập thánh đế (samudaya-sacca)? Trong Kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật dạy rằng tham ái là sự thật cao thượng về nguyên nhân của Khổ (Tập khổ thánh đế). Trong Tương ưng Kinh, Thiên Nidāna, Đức Phật còn dạy duyên khởi là Khổ tập thánh đế, hay vô minh (avijjā), tham ái (taṇhā), thủ (upādāna), hành (saṅkhāra), và nghiệp lực (kamma) đều là Khổ tập thánh đế. Nói tóm lại, tất cả nghiệp lực thiện có thể dẫn đến tái sanh và tất cả các nghiệp lực bất thiện đều là thánh đế về nguyên nhân của Khổ. Trong bộ Phân tích Thánh đế, Đức Phật dạy Tập đế theo năm cách:
  1. Tham ái (taṇhā) là Khổ tập đế (samudaya-sacca).
  2. Mười loại kiết sử (tham, sân, si, mạn, tà kiến, nghi, hôn trầm, trạo cử, vô tàm, vô quý) cũng là Khổ tập đế (samudaya-sacca).
  3. Tất cả các Pháp bất thiện (akusala dhamma) là Khổ tập đế.
  4. Tất cả các Pháp bất thiện và ba thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) có thể dẫn dắt tái sanh là Khổ tập đế (samudaya-sacca).
  5. Tất cả các Pháp thiện có thể dẫn dắt tái sinh và tất cả các Pháp bất thiện hay tất cả các thiện nghiệp có thể dẫn dắt tái sinh và tất cả các bất thiện nghiệp đều là Khổ tập đế (samudaya-sacca).
Cả các Pháp Khổ đế và các Pháp Khổ tập đều là các đối tượng của Tuệ Minh Sát, vì vậy nếu quý vị muốn hành Minh Sát để đoạn tận khổ, trước tiên quý vị nên cố gắng liễu tri chúng.

Thánh đế Khổ diệt

Gì là Thánh đế về Khổ diệt (nirodha- sacca)? Trong Kinh Chuyển Pháp luân, Đức Phật dạy rằng sự diệt tận tham ái không còn dư sót là Thánh đế Khổ diệt. Trong các bài kinh khác, Đức Phật còn dạy sự diệt tận Khổ đế không còn dư sót là Thánh đế về Khổ diệt. Tại sao Đức Phật dạy theo hai cách? Chúng là như nhau. Do bởi sự đoạn tận vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp lực mà ngũ uẩn (là Khổ đế) sẽ chấm dứt hoàn toàn không còn dư sót. Ngũ uẩn sẽ chấm dứt hoàn toàn không còn dư sót do nhờ sự tận diệt các nhân sanh khởi. Vì vậy hai cách dạy này là giống nhau. Đấy là lý do tại sao đôi khi Đức Phật dạy sự diệt trừ tham ái không còn dư sót là Thánh đế về Khổ diệt và có khi Ngài dạy sự chấm dứt ngũ uẩn không còn dư sót là Thánh đế về Khổ diệt.
Thực tế, Niết-bàn là Thánh đế về Khổ diệt. Hai loại diệt này xảy ra là nhờ Thánh Đạo Tuệ, lấy Niết-bàn làm đối tượng, tiêu diệt tất cả các phiền não không còn dư sót qua từng giai đoạn. Nhờ diệt tận các phiền não không còn dư sót, nghiệp không thể cho quả tái sinh ngũ uẩn sau khi tịch diệt Niết-bàn. Vì vậy ngũ uẩn cũng tận diệt không còn dư sót. Tuy nhiên vì với một số vị, thật khó để hiểu được Niết-bàn nên Đức Phật dạy sự tận diệt này hay sự tận diệt kia đều là Thánh đế về Khổ diệt. Có lúc Niết-bàn còn được gọi là Vô vi giới, Asaṅkhata dhātu. Vì thế, vô vi, Niết-bàn là một nhân, và hai loại tận diệt là các quả. Vì thế Niết-bàn có thể được xem như là hoặc nhân hay quả gì cũng được.
Thánh đế về Khổ diệt có thể là nhân hay là quả. Lại nữa, sự diệt tận phiền não không còn dư sót được gọi là Kiết sử Niết-bàn, Kilesa Parinibbāna. Sự diệt tận ngũ uẩn không còn dư sót cũng được gọi là Ngũ uẩn Niết-bàn, Khandha- Parinibbāna. Hơn nữa sự diệt tận phiền não không còn dư sót còn được gọi là Hữu dư Niết-bàn Saupadisesa Nibbāna, nghĩa là thọ mạng vẫn còn vì năm uẩn vẫn còn hiện hữu dầu đã tận diệt các phiền não không còn dư sót. Sự tận diệt năm uẩn không còn dư sót được gọi là Vô dư Niết-bàn, Anupādisesa-Nirodha, sự tịch diệt không còn dòng sống, nghĩa là sự tịch diệt năm uẩn không còn dư sót.
Ví như, sự tận diệt các phiền não không còn dư sót của Đức Phật khởi lên khi Ngài chứng ngộ Quả vị Chánh đẳng giác. Bốn Thánh Đạo của Ngài lấy Niết-bàn làm đối tượng, đã tiêu diệt tất cả phiền não theo từng giai đoạn không còn dư sót ở tại Bồ Đề Đạo Tràng. Bốn mươi lăm năm sau, Ngài nhập Đại Niết-bàn, tịch diệt năm uẩn không còn dư sót tại Kusinara.
Niết-bàn là vô vi giới, là đối tượng của bốn Thánh Đạo Quả Siêu thế. Tuy nhiên trước khi chứng ngộ Niết-bàn, trong khi đang hành Vipassanā, có hai loại tận diệt được lấy làm đối tượng của Minh Sát Tuệ, đó là sự tận diệt phiền não không còn dư sót và sự tận diệt năm uẩn không còn dư sót. Minh Sát Tuệ mà giác ngộ hai đối tượng này gọi là Sanh diệt tuệ (Udayabbayañāṇa), Trí thấy rõ sự sanh và diệt của danh sắc, các hữu vi đều có sanh có diệt.

Thánh Đế Về Con Đường Đưa Đến Khổ Diệt
(Đạo Đế)

Gì là thánh đế về con đường đưa đến Khổ diệt (Magga-sacca)? Đó là Bát Thánh Đạo. Có khi Bát Thánh Đạo còn được gọi là Đạo đế, Magga-sacca. Dầu là trong bài kinh Chuyển Pháp luân, Đức Phật gọi nó là Dukkhanirodhagāminī Paṭipadā Ariyasacca, Thánh Đế Về Con Đường Thực Hành Dẫn Đến Diệt Khổ. Nhưng hai cái tên này đều là một.
Có hai loại Bát Thánh Đạo: hiệp thế và siêu thế. Để đến được Bát Thánh Đạo siêu thế, quý vị phải trước hết phát triển Bát Thánh Đạo hiệp thế. Bát Thánh Đạo siêu thế chỉ khởi lên một lần trong dòng tâm của bất kỳ cá nhân nào, và không phải tự nhiên mà thành. Ấy nhờ Đạo hiệp thế được phát triển dần qua quá trình huân tập và phát triển của từng cá nhân. Trong quá trình thực hành Vipassanā thuộc Bát Thánh Đạo hiệp thế, năm chi phần của Bát Thánh Đạo luôn có mặt cùng lúc. Ví như lúc đang trực nhận năm uẩn và các nhân của chúng, quý vị phải để ý đến ba đặc tính của các Pháp hữu vi này. Cả Pháp khổ đế và Pháp khổ tập đều được gọi là Pháp hành (saṅkhāra dhamma). Bằng cách thấy được tính Vô thường của chúng, quý vị nên liễu tri chúng là Vô thường, anicca. Bằng cách thấy được bản chất bị đàn áp bởi tánh sanh và diệt, quý vị phải liễu tri chúng là Khổ, dukkha. Bằng cách thấy được bản chất của chúng là không có một chủ thể bền vững, quý vị nên liễu tri chúng là Vô ngã, anatta. Trong khi quán sát như thế, quý vị biết được bản chất Vô thường, Khổ và Vô ngã của các Pháp hành này. Tuệ thấy biết này được gọi là Chánh Kiến. Sự hướng tâm đến các Pháp hành này và các bản chất Vô thường, Khổ và Vô ngã của chúng được gọi là Chánh Tư duy. Chánh Tư duy luôn khởi sinh cùng Chánh Kiến. Nỗ lực mà quý vị sử dụng để thấy được các bản chất Vô thường, Khổ và Vô ngã của các Pháp hành này được gọi là Chánh Tinh tấn. Sự chánh niệm về các bản chất Vô thường, Khổ, Vô ngã của các Pháp hành này được gọi là Chánh Niệm. Sự tập trung vào các bản chất Vô thường, Khổ và Vô ngã của các Pháp hành này được gọi là Chánh Định. Do vậy, khi một người đang thực hành Vipassanā, thiền Minh Sát, năm chi phần của Bát Thánh Đạo sẽ luôn có mặt cùng lúc. Ba chi phần còn lại: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng là phần hành Giới. Trước khi tiến hành thiền Chỉ và thiền Quán, quý vị phải thực hành rèn luyện Giới. Vậy là tổng cộng có tám chi phần của Bát Thánh Đạo. Nhưng ba chi phần thuộc Giới hành khởi sinh vào lúc khác với năm chi phần kia. Ba chi phần này không sinh khởi cùng lúc với Tuệ Minh Sát, nghĩa là chúng không khởi sinh trong cùng một sát-na tâm, hay trong cùng một lộ trình tâm thuộc Thánh Đạo hiệp thế.
Vào lúc cuối của việc hành Minh Sát khi một hành giả chứng ngộ Niết-bàn, tám chi phần Bát Thánh Đạo sẽ có mặt. Chúng được gọi là Bát Thánh Đạo siêu thế. Chứng ngộ Niết-bàn được gọi là Chánh Kiến. Sự hướng tâm đến Niết-bàn được gọi là Chánh Tư Duy. Nỗ lực để chứng ngộ Niết-bàn được gọi là Chánh Tinh Tấn. Sự chánh niệm về Niết-bàn được gọi là Chánh Niệm. Sự tập trung vào Niết-bàn được gọi là Chánh Định. Các phiền não nào có khả năng khiến sai phạm khỏi việc giữ gìn Chánh ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng đã bị Đạo Tuệ diệt tiêu. Vậy là ba chi phần này khởi sanh cùng lúc với Đạo Tuệ. Nên khi một hành giả chứng ngộ Niết-bàn, tất cả tám chi phần của Bát Thánh Đạo đều có mặt.

Kinh Chánh Định

Nên thực hành sao để giác ngộ bốn Thánh đế? Xin mời hãy lắng nghe bài Kinh Chánh Định (Samādhi sutta) trong Tương Ưng Sự Thật, Sacca Saṃyutta:
Này chư Tỷ-khưu, hãy phát triển định. Một vị Tỷ-kheo có định, như thị giác tri các Pháp. Gì là Pháp vị ấy như thị giác tri?
Vị ấy như thị giác tri đây là Khổ đế (sự thật tối thượng về Khổ)- Dukkha Sacca. Như thị giác tri đây là Khổ Tập (sự thật tối thượng về nguồn gốc của Khổ)- Samudaya Sacca. Như thị giác tri đây là Khổ diệt (sự thật tối thượng về sự chấm dứt Khổ)- Nirodha Sacca. Như thị giác tri đây là Đạo đế (sự thật tối thượng về Con đường đưa đến chấm dứt Khổ)- Magga Sacca.
Vì vậy, này chư Tỷ-kheo, hãy phát triển định. Một vị Tỷ-kheo có định, sẽ như thị giác tri các Pháp.”
Vì vậy, cần phải nỗ lực để biết rõ, thấy rõ đây là Sự thật tối thượng về Khổ; cần phải nỗ lực để biết rõ, thấy rõ đây là Sự thật tối thượng về nguồn gốc của Khổ (Khổ tập); cần phải nỗ lực để thấy rõ, biết rõ đây là Sự thật tối thượng về Khổ diệt; cần phải nỗ lực để biết rõ, thấy rõ đây là Sư thật tối thượng về Con đường đưa đến Khổ Diệt.”
Vậy để biết rõ Bốn Thánh đế, trước hết quý vị nên phát triển định. Có bốn mươi đề mục cho phần hành thiền Định. Quý vị có thể chọn bất kỳ đề mục nào. Ở đây tôi muốn giải thích trước tiên phương Pháp Niệm hơi thở Ānāpānasati và sau đó tôi sẽ giải thích nên làm cách nào để chứng ngộ Bốn Thánh đế.
Tôi sẽ giải thích phần thực hành theo Kinh Đại Niệm Xứ Mahāsatipaṭṭhāna. Trong bài Kinh này, Đức Phật dạy:

Niệm Hơi Thở

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến một nơi vắng vẻ và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm vào đề mục thiền của mình. Tỉnh giác, vị ấy hít vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Khi hít vô dài, vị ấy hiểu rõ: "Tôi hít vô dài". Khi thở ra dài, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở ra dài". Khi hít vô ngắn, vị ấy hiểu rõ: "Tôi hít vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở ra ngắn". Vị ấy tập như vậy: "Tôi sẽ vừa hít vào vừa cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở". Vị ấy tập như vậy: "Tôi sẽ vừa thở ra vừa cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở ra". Vị ấy tập như vầy: "Tôi sẽ vừa hít vào vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở". Vị ấy tập như vầy: "Tôi sẽ vừa thở ra vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở".
Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, hiểu rõ: "Tôi quay dài" hay khi quay ngắn, hiểu rõ: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hít vô dài, hiểu rõ: "Tôi hít vô dài"; hay thở ra dài, hiểu rõ: "Tôi thở ra dài"; hay hít vô ngắn, hiểu rõ: "Tôi hít vô ngắn"; hay thở ra ngắn, hiểu rõ: "Tôi thở ra ngắn". Vị ấy tập như vầy: "Cảm giác rõ toàn thân hơi thở, tôi sẽ hít vô". Vị ấy tập như vầy: "Cảm giác rõ toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở ra". Vị ấy tập như vầy: "An tịnh toàn thân hơi thở, tôi sẽ hít vô". Vị ấy tập như vầy: "An tịnh toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở ra".”
Đây là phần Đức Phật dạy về Niệm hơi thở, đặc biệt để đạt đến an chỉ định, định bậc thiền. Trong đoạn văn, từ “ở đây” nghĩa là ở trong Giáo Pháp của Đức Phật. Bằng từ “ở đây”, những giáo lý ngoài Phật giáo được loại ra vì chúng không dạy phương pháp Niệm hơi thở một cách hoàn hảo như đã được dạy trong Phật giáo. Ngoài Phật giáo ra, không một giáo lý nào khác có thể dạy phương pháp Niệm hơi thở một cách hoàn hảo. Nó chỉ được giảng dạy trong Giáo Pháp của Đức Phật. Vì thế mới nói:
Ở đây chúng ta mới tìm thấy bậc sa-môn; ngoại đạo không có các bậc sa-môn.

Những Trú Xứ Thích Hợp cho Thiền

Đức Phật chỉ ra những nơi thích hợp cho hành giả trong đoạn: “...Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến nơi thanh vắng...”Điều này nói rõ đâu là nơi thích hợp cho hành giả để huân tập và phát triển chánh niệm.
Tâm hành giả bấy lâu thường khắn khít với các đối tượng sắc Pháp và dục lạc trước khi hành giả dấn thân vào thiền. Vị ấy không thích bước vào con đường thiền tập do bởi cái tâm chưa được điều phục của mình không quen sống thiếu các dục lạc. Vị ấy giống như con bê non nếu bị thắng vào một cỗ xe kéo thì chỉ muốn chạy khỏi con đường. Trước khi dấn thân vào thiền, tâm của vị ấy thường xuyên tiếp xúc với đủ đối tượng dục lạc khác nhau như phim ảnh, âm nhạc, thức ăn thượng vị và đời sống xã hội lạc hưởng. Và tâm vị ấy chỉ đắm chìm vào đấy. Nhưng giờ đây, không có phim ảnh, không có âm nhạc, v.v.. để mua vui cho con mắt, lỗ tai của vị ấy, v.v.. nên tâm vị ấy giống như con cá bị bắt ra khỏi hồ và nằm trên đất khô, giẫy giụa trong khổ sở và mong ngóng về với nước. Lúc này hơi thở vào và hơi thở ra giống như nền đất khô vậy, quá đơn điệu và không đáp ứng cái tâm mong cầu dục lạc của vị ấy. Trong khi đang tọa thiền, thay vì tập trung trên hơi thở, vị ấy chỉ dành thời gian để nhớ tưởng về các thú vui mà mình đã tận hưởng hay mong đợi dục lạc trong tương lai. Nhưng điều này chỉ khiến phí thời gian và chẳng ích lợi gì cho việc huân tập và phát triển tâm mình. Cho dù vị ấy có thực hành cách này cả đời cũng chẳng thể tiến bộ hơn được.

Tỷ Dụ Về Con Bê Hoang

Do vậy để vượt qua thói quen xấu này, vị ấy nên lặp đi lặp lại việc mang tâm về hơi thở, trụ tâm mình trên ấy càng lâu càng tốt. Theo cách này, vị ấy có thể phát triển được thói quen mới là tập trung vào hơi thở. Nó giống như một mục đồng muốn điều phục một con bê bấy lâu được nuôi dưỡng chỉ toàn bằng sữa bò mẹ hoang. Người ấy dẫn con bê khỏi bò mẹ, đến một cột trụ được đóng chặt xuống đất và buộc con bê vào đấy. Khi con bê nhảy qua nhảy lại, nó thấy không thể nào chạy thoát khỏi cột trụ. Cuối cùng nó mệt mỏi vì việc kháng cự và ngồi hay nằm xuống ngay tại cột trụ. Tương tự vậy, người nào muốn điều phục cái tâm hoang dại đã lâu ngày được các đối tượng sắc và dục lạc khác nuông chìu, nay đưa tâm mình ra khỏi chốn ấy và dấn vào rừng sâu, đến một gốc cây hay đến một nơi thanh vắng. Rồi vị ấy buộc tâm mình vào một cột trụ là đối tượng của một niệm xứ, như là hơi thở, bằng sợi dây thừng chánh niệm. Tâm của vị ấy cũng sẽ chạy đây, chạy đó. Khi nó không thể đạt được đối tượng quen thuộc xưa nay và thấy không thể rứt bỏ sợi dây thừng chánh niệm để cao chạy xa bay, cuối cùng nó sẽ ngồi xuống ngay tại đối tượng ấy bằng cận định hoặc an chỉ định.
Vậy nên các nhà chú giải xưa đã nói:
"Mục đồng muốn chăn luyện bê hoang
cần cột bê vào cọc chắc thế nào,
Đây cũng vậy, hành giả cần
dùng dây niệm buộc tâm chắc vào đề mục
".

Theo trên, trú xứ ấy là thích hợp cho hành giả. Vì vậy, nó được nói: “Điều này chỉ rõ trú xứ nào là thích hợp cho hành giả huân tập và phát triển chánh niệm.
Việc niệm hơi thở không dễ để thành tựu nếu không rời xa vùng lân cận làng xóm bởi âm thanh là một chướng ngại với thiền Định. Ở một nơi không có dân cư, rất dễ cho một hành giả ghi nhận đề mục thiền này. Vì thế, Đức Thế tôn đã chỉ rõ trú xứ thích hợp bằng cụm từ: “..đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến một nơi vắng vẻ...”.
Đức Phật giống như một bậc Thầy về nghệ thuật xây dựng những cảnh trí vì Ngài đã chỉ ra trú xứ thích hợp cho các hành giả. Như bậc Thầy về nghệ thuật xây cất quan sát cảnh trí dự định cho một thành phố, ngắm thật kỹ lưỡng khung cảnh ấy từ các phía, và chỉ dẫn "Hãy xây dựng thành phố tại đây". Và khi việc xây dựng thành phố đã hoàn tất, vị ấy được vinh dự lớn của các gia đình hoàng thân. Cũng vậy, Ðức Thế tôn sau khi xem xét từ mọi phương diện về một trú xứ thích nghi cho hành giả, và Ngài chỉ dẫn: "nên chọn đề mục thiền này". Và về sau, khi thiền giả đã tu tập đề mục thiền và đắc A-la-hán quả, nói: "Chắc chắn rồi, Ðức Thế tôn quả thực là Ðấng Toàn Giác", Ðức Thế tôn nhận được danh xưng lớn.

Tỷ Dụ về Con Báo.

Tỷ-kheo này được ví như một con báo. Cũng giống con báo, vị ấy sống một mình trong rừng và thành tựu mục tiêu của mình bằng cách vượt qua tất cả những gì đối nghịch với mình, ấy là các thú vui.
Một con báo lớn chúa tể loài báo, trốn trong một rừng cỏ hay rừng cây hay bãi đá hoang vu trong rừng để bắt các dã thú trâu rừng, bò rừng, heo, và các dã thú khác v.v... Cũng vậy, vị Tỷ-kheo dâng trọn bản thân tu tập đề mục thiền trong rừng sẽ đạt được tuần tự Bốn Thánh Đạo và Bốn Thánh Quả. Bởi thế Cổ Đức nói:
Như con báo trong rừng
Bắt được các dã thú
Vị đệ tử của Phật
Với Trí Tuệ, tinh cần
Nhờ ẩn vào rừng sâu
Ðược Quả vị cao nhất.

Bởi thế đức Thế tôn nói: "..đi vào khu rừng" v.v... là để nêu rõ một trú xứ thích hợp để việc nỗ lực hành thiền có kết quả.
Mặc dù lúc này đây quý vị không ở trong rừng hay nơi một cội cây, và nơi này các hành giả đông đúc, nếu quý vị có thể phớt lờ sự hiện diện của người khác, dẹp bỏ tất cả mọi việc qua một bên và chỉ hay biết duy nhất vào đề mục thiền của mình, thì nơi này sẽ như tịnh thất với quý vị. Thêm nữa, thời thiền tập thể thực sự giúp quý vị cộng hưởng năng lượng cho nhau và thiền nhanh tiến hơn.

Để Thở Vào Và Thở Ra Một Cách Tỉnh Giác

lưng thẳng” có nghĩa là giữ cho cột sống thẳng đứng nhờ các đốt xương sống nối liền nhau thẳng khớp. Thân được giữ thẳng từ phần hông trở lên. Đức Phật khuyến cáo tư thế này vì nó là tư thế thích hợp nhất và thoải mái nhất, và giữ tâm ta an tịnh nhưng tỉnh táo.
..an trú chánh niệm vào đề mục thiền của mình..” nghĩa là gì? Nó có nghĩa là trụ tâm mình bằng cách hướng nó vào đề mục thiền. Ví dụ như khi đang hành Niệm hơi thở, quý vị cần thiết lập chánh niệm vào hơi thở. Nếu đang hành Tứ đại, quý vị cần thiết lập chánh niệm vào đề mục Tứ đại. Quý vị nên hướng sự chú ý vào đề mục thiền của mình, chứ không phải về gia đình của mình.
Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra.” có nghĩa là vị ấy thở vào và thở ra mà không từ bỏ sự Chánh niệm hay sự tỉnh giác. Chánh niệm rất quan trọng. Ở đây, Chánh niệm có nghĩa là nhớ. Nếu duy trì việc nhớ hơi thở quanh lỗ mũi hay trên đỉnh môi trên, sự chánh niệm và định tâm của quý vị sẽ mạnh lên. Khi định tiến bộ, quý vị sẽ thấy tợ tướng. Nếu tập trung trên tợ tướng vững cố, quý vị sẽ đạt hết bốn bậc thiền.

Hơi Thở Dài và Hơi Thở Ngắn

Quý vị nên tỉnh giác thở vào như thế nào? Quý vị nên tỉnh giác thở ra như thế nào? Đức Phật hướng dẫn:
Thở vô dài, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở ra dài".
Vị ấy hít vào một hơi thở dài qua thời gian diễn tiến dài, vị ấy thở ra một hơi thở dài qua thời gian diễn tiến dài, và vị ấy hít vào và thở ra những hơi thở dài qua thời gian diễn tiến dài.
Khi vị ấy hít vào và thở ra từng hơi thở dài, qua thời gian diễn tiến của mỗi hơi thở, sự nhiệt tình (chanda) vốn rất quan trọng trong hành thiền, khởi lên nơi vị ấy. Với tâm nhiệt tình, vị ấy hít vào một hơi thở dài thanh tịnh hơn hơi thở trước qua thời gian diễn tiến dài của hơi thở. Với tâm nhiệt tình, vị ấy thở ra một hơi thở dài thanh tịnh hơn hơi thở trước qua thời gian diễn tiến dài của hơi thở. Và với tâm nhiệt tình, vị ấy hít vào và thở ra những hơi thở dài thanh tịnh hơn hơi thở trước qua thời gian diễn tiến dài của hơi thở.
Khi với tâm nhiệt tình, vị tỷ kheo hít vào và thở ra những hơi thở dài, hơi thở sau nhẹ nhàng hơn hơi thở trước, sự thích thú (hỷ, pīti) sẽ khởi sinh nơi vị ấy. Với tâm hoan hỷ, vị ấy sẽ hít vào hơi thở dài vi tế hơn hơi thở trước qua suốt thời gian diễn tiến của hơi thở. Với hỷ, vị ấy sẽ thở ra hơi thở dài tịnh hơn hơi thở trước qua suốt thời gian diễn tiến của hơi thở. Và với hỷ, vị ấy sẽ hít vào và thở ra những hơi thở dài, hơi thở sau vi tế hơn hơi thở trước qua suốt thời gian diễn tiến của hơi thở.
Hoan hỷ trong khi hành thiền (pīti) vốn rất quan trọng để có định cao hơn. Nếu quý vị chưa từng có hỷ trong khi đang thiền, Định của quý vị không thể cải thiện. Khi nào thì hỷ mới khởi sinh? Khi quý vị loại bỏ được trạo cử và phóng tâm, và có thể tập trung trên đối tượng hơi thở vi tế suốt thời gian diễn tiến của mỗi hơi thở dài vi tế, định của quý vị sẽ cải thiện và khi định dần trở nên sâu hơn, hỷ (pīti) sẽ khởi sinh trong tâm hành giả.
Và khi vị tỷ kheo hít vào và thở ra những hơi thở dài với hỷ, hơi thở dài sau sẽ vi tế hơn hơi thở dài trước, lúc ấy tâm của vị ấy sẽ tự động rời khỏi hơi thở vào, ra dài mà chuyển sang tợ tướng, và an trú trên đấy với trạng thái xã, upekkhā.
Tiến trình hành thiền tương tự trong đoạn kinh văn cho hơi thở ngắn, bằng cách chỉ thay “hơi thở dài” bằng “hơi thở ngắn” vì có khi hơi thở là dài, có lúc ngắn. Điều này là tự nhiên thôi.
Thở vô ngắn, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy hiểu rõ: "Tôi thở ra ngắn".

Toàn Thân Hơi Thở

Như trong đoạn Kinh văn:
Vị ấy tập như vầy: “Cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở vô". Vị ấy tập như vầy; "Cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở ra”.
Vị ấy tập luyện với ý nghĩ như sau: “tôi sẽ vừa hít vào vừa làm cho mình biết và rõ về điểm bắt đầu, đoạn giữa và điểm kết thúc của toàn bộ thân mỗi hơi thở vào. Tôi sẽ vừa thở ra vừa làm cho mình biết và rõ về điểm bắt đầu, đoạn giữa và điểm kết thúc của toàn bộ thân mỗi hơi thở ra. Và như thế vị ấy hít vào và thở ra với tâm hợp Trí giúp mình biết rõ về hơi thở.
Trong trường hợp này quý vị không nên hiểu lầm rằng quý vị nên ghi nhận hơi thở theo cách: “đây là điểm bắt đầu, đây là đoạn giữa, đây là điểm kết thúc”. Chỉ việc biết toàn bộ hơi thở một cách liên tục là đủ rồi.
Đối với một hành giả, trong hơi thở vô và hơi thở ra bị yếu ớt hay tán loạn, chỉ có điểm bắt đầu là rõ, còn đoạn giữa và điểm cuối không được rõ. Vị ấy có thể chỉ nắm bắt được điểm bắt đầu, và gặp khó khăn với đoạn giữa và điểm kết thúc. Với vị khác thì chỉ có đoạn giữa là rõ, còn điểm bắt đầu và điểm kết thúc thì không rõ. Với một vị thứ ba nữa là chỉ có điểm kết thúc là rõ, điểm bắt đầu và đoạn giữa là không rõ. Vị ấy gặp khó khăn với điểm bắt đầu và đoạn giữa. Nhưng với một vị thứ tư nữa là cả ba giai đoạn đều rõ với vị ấy và vị ấy có thể nắm bắt được hết cả ba. Vị ấy chẳng gặp rắc rối nào ở đâu cả. Để chỉ ra rằng nên phát triển đề mục thiền này theo mẫu hành giả thứ tư, Đức Phật mới dạy: “Vị ấy tập như vầy: “Cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở vô". Vị ấy tập như vầy: "Cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở, tôi sẽ thở ra.””
Vào giai đoạn đầu của thiền này, chẳng có việc gì khác cần làm ngoài việc thở vào và thở ra, được dạy như sau: Khi vị ấy hít vào hơi thở dài, vị ấy hiểu rõ: “Tôi hít vào dài”. Khi thở ra một hơi thở dài, vị ấy hiểu rõ: “Tôi thở ra dài”. Khi hít vào một hơi thở ngắn, vị ấy hiểu rõ: “Tôi hít vào ngắn”. Khi thở ra một hơi thở ngắn, vị ấy hiểu rõ: “Tôi thở ra ngắn”. Sau đó, vị ấy nên nỗ lực để khởi sinh Trí Tuệ và hơn nữa, vì thế mà điều này được nói đến:“Tôi sẽ vừa hít vào vừa cảm giác rõ ràng toàn thân hơi thở”. Biết rõ hơi thở là phần Tuệ học; tập trung trên hơi thở là phần Định học; chế ngự tâm khỏi các phiền não là phần Giới học. Vị ấy nên nỗ lực thành tựu tam học này trong khi thở.

Hơi Thở Vi Tế

Như trong đoạn kinh văn:
Vị ấy tập như vầy: "Tôi sẽ vừa hít vào vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở". Vị ấy tập như vầy: "Tôi sẽ vừa thở ra vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở".
Vị ấy nghĩ rằng: Tôi sẽ vừa hít vào, thở ra vừa khiến cho hoạt động hít vào thở ra được yên lặng, êm dịu, khinh an và tĩnh lặng. Theo cách này, vị ấy luyện tập chính mình.
Liên hệ phần này, tính thô tháo, tính vi tế và an tịnh nên được hiểu như vầy: nếu không có nỗ lực chú niệm, thân tâm của Tỷ-kheo này sẽ mệt nhọc và thô tháo. Hơi thở vào và ra cũng sẽ thô tháo và không an tịnh. Cánh mũi của vị ấy cũng trở nên chật chội và vị ấy phải thở bằng cả miệng. Nhưng khi thân và tâm được kiểm soát, chúng sẽ trở nên yên lặng và an tịnh. Khi chúng đang nghĩ ngơi, việc thở trở nên vi tế đến nổi hành giả nghi ngờ xem mình có đang thở không.
Ví như một người đứng yên lại sau khi chạy xuống đồi, đặt một gánh nặng đang đội trên đầu xuống, thì khi ấy những hơi thở vô ra của người ấy còn thô tháo. Hai cánh mũi trở nên không đủ, người đó thở cả bằng miệng nữa. Nhưng khi vị ấy đã hết cơn mệt, đã uống nước, tắm rửa, đắp một mảnh vải ướt nơi ngực, nằm xuống trong bóng mát, thì những hơi thở ra vào của người ấy trở nên vi tế đến nổi vị ấy không biết được nó có đang hiện hữu không. Vị Tỷ-kheo cũng vậy, hơi thở của vị ấy trở nên quá vi tế sau khi vị ấy dấn thân vào thực hành chú niệm hơi thở đến mức vị ấy khó nói được liệu mình có đang thở hay không. Tại sao vậy? Khi chưa hành thiền, vị ấy không giác tri, tập trung, suy tư hay nghĩ về vấn đề tịnh chỉ hơi thở thô tháo. Nhưng khi thực hành, vị ấy mới làm. Vì vậy, hoạt động thở trở nên vi tế trong khi hành thiền hơn lúc không thực hành. Vì thế mà các nhà chú giải xưa có nói:
"Khi tâm và thân giao động,
Thì hơi thở gấp.
Nhưng khi thân không giao động,
Thì hơi thở vi tế
".

Làm cách nào vị ấy luyện tập chính mình với suy nghĩ: “Tôi sẽ vừa hít vào vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở. Tôi sẽ vừa thở ra vừa an tịnh toàn thân hành của hơi thở”. Gì là các thân hành của toàn bộ hơi thở (kāyasaṅkhāra)? Những gì thuộc về hơi thở, vốn gắn liền với hơi thở là các thân hành của toàn bộ hơi thở. Vị ấy luyện tập để khiến cho thân hành của toàn bộ hơi thở trở nên yên lặng, trở nên êm dịu và an tịnh. Vị ấy vừa luyện tập mình vừa suy nghĩ như vầy: “Làm an tịnh các thân hành của toàn bộ hơi thở bằng cách làm lắng yên các hoạt động của thân thể như đổ tới, đổ lui, nghiêng qua, nghiêng lại, đủ hướng và vừa an chỉ các cử động, lung lay, rung động, rùng mình của thân thể, tôi sẽ hít vào và thở ra. Tôi sẽ vừa hít vào và thở ra vừa làm cho an tịnh các thân hành của toàn bộ hơi thở bằng bất cứ hoạt động nào tĩnh lặng và êm ái của thân thể như không nghiêng người tới, đổ người lui, không nghiêng qua, đổ lại, như không cử động, lung lay, không rung động, rùng mình”.
Vậy là tôi đã chỉ cho quý vị bốn giai đoạn để phát triển định nhờ niệm hơi thở, ấy là tập trung trên:
  1. Hơi thở dài
  2. Hơi thở ngắn
  3. Toàn bộ hơi thở, và
  4. Hơi thở vi tế.

Kết Hợp Thành Một

Trong trường hợp này quý vị nên hiểu rằng có thể kết hợp cả ba giai đoạn, dài, ngắn và vi tế trong một. Nó có nghĩa là trong khi quý vị đang thở những hơi thở dài vi tế, quý vị nên gắng biết rõ toàn bộ hơi thở dài vi tế này. Nếu hơi thở chưa trở nên vi tế, quý vị nên nhắc tâm nhớ về ý muốn có hơi thở vi tế. Nếu cố gắng cách này, khi định cải thiện, toàn bộ thân hơi thở sẽ trở nên vi tế. Lúc ấy với tâm thật nhiệt tình, quý vị nên biết rõ toàn bộ thân hơi thở dài vi tế ấy. Nếu thực hành như vậy, quý vị có thể thành công trong chứng đạt thiền.
Cũng có thể kết hợp ba giai đoạn, hơi thở ngắn, toàn bộ thân hơi thở và hơi thở vi tế trong một. Trong khi đang thở những hơi thở dài vi tế, quý vị nên biết rõ cả ba, hơi thở dài, toàn bộ thân hơi thở và hơi thở vi tế cùng nhau. Và trong khi đang thở những hơi thở ngắn vi tế, quý vị nên gắng biết rõ toàn bộ thân hơi thở ngắn vi tế. Nếu quý vị thực hành cách này với đủ sự nhiệt tình và hoan hỷ, định của quý vị sẽ cải thiện. Khi định cải thiện, hơi thở sẽ dần tế vi hơn. Lúc ấy không nên thất vọng với ý nghĩ rằng: “Ôi, hơi thở của tôi không rõ ràng.” Vì chúng sẽ làm cho bạn bực dọc. Kết quả là định của quý vị sẽ thối giảm. Thật ra, rất tốt khi hơi thở trở nên vi tế. Tại sao? Nếu lúc ấy ấn tướng (Nimitta) xuất hiện, và tâm quý vị dán vào nó, quý vị sẽ không bị hơi thở chi phối. Còn nếu hơi thở còn thô tháo, quý vị có thể biết nimitta cũng như hơi thở; tâm sẽ có hai đối tượng. Với hai đối tượng, tâm quý vị không được gom về một điểm, và định sẽ không cải thiện. Vì thế, quý vị nên hài lòng khi hơi thở trở nên vi tế hơn.
Tuy nhiên quý vị không được cố tình làm cho hơi thở dài, ngắn, hay vi tế. Nếu làm vậy Tinh tấn giác chi và Trạch pháp giác chi sẽ trở nên trội hơn. Khi hai giác chi này trội hơn, định sẽ thối giảm. Vì vậy mà quý vị nên để cho việc thở của mình diễn tiến tự nhiên. Đây là điều tốt nhất. Có lúc hơi thở là dài, có lúc thì ngắn. Không vấn đề. Dù hơi thở là dài hay ngắn, quý vị nên cố biết rõ toàn bộ thân hơi thở. Khi định tiến thêm nữa, quý vị nên cố biết rõ toàn bộ thân hơi thở vi tế. Khi nó là dài, quý vị nên cố biết rõ toàn bộ thân hơi thở vi tế dài. Khi nó là ngắn, quý vị nên cố biết rõ toàn thân hơi thở vi tế ngắn.
Nếu có thể tập trung trên toàn bộ thân hơi thở vi tế cho được hơn một hay hai tiếng đồng hồ cho mỗi thời ngồi, định của quý vị sẽ tiến cao hơn nữa. Lúc ấy quý vị nên quan tâm đặc biệt đến việc thực hành liên tục. Xin hãy dừng suy tư. Xin hãy dừng nói chuyện. Trong mọi oai nghi, đi, đứng, ngồi hay nằm, quý vị đều phải tập trung chỉ trên hơi thở mà thôi. Quý vị không nên chú ý đến bất kỳ đối tượng nào khác.

Nimitta và Ánh Sáng

Nếu quý vị có thể tập trung vào toàn bộ thân hơi thở vi tế, dù dài hay ngắn, liên tục cho được hơn một tiếng đồng hồ trong mỗi thời ngồi liên tục suốt ba ngày, thường thì nimitta sẽ xuất hiện. Với một số hành giả, nimitta xuất hiện trước, tuy nhiên với số khác thì ánh sáng xuất hiện trước. Quý vị nên phân biệt nimitta với ánh sáng. Chúng là hai thứ khác nhau, ví như mặt trời và ánh sáng mặt trời vậy.
Ánh sáng thì ở khắp mọi nơi, có ở mọi hướng quanh thân quý vị. Ngoại trừ thức tái sanh, mọi tâm sanh lên nương nhờ nơi sắc ý căn sản sinh ra rất nhiều tổng hợp sắc (kalāpa), là các hạt cực nhỏ, được gọi là tổng hợp sắc do tâm sanh. Nếu phân tích các tổng hợp sắc này, quý vị sẽ thấy ít nhất tám yếu tố sắc, ấy là, đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị và dưỡng chất. Nếu tâm ấy là một tâm định và mạnh mẽ, màu của các tổng hợp sắc do tâm định này sinh sẽ phát sáng. Ngoài ra, yếu tố lửa (nhiệt) trong các tổng hợp sắc ấy sẽ sản sinh nhiều tổng hợp sắc mới được gọi là sắc do nhiệt sanh vốn lan tỏa không chỉ khắp trong thân mà còn tỏa ra bên ngoài. Trong mỗi tổng hợp sắc này còn có yếu tố màu phát sáng thành ánh sáng. Khi tâm có định vững chắc và mạnh mẽ, ánh sáng lan tỏa rất xa. Khi định yếu hơn, ánh sáng chỉ lan tỏa ra vài inch. Màu của các tổng hợp sắc do tâm sanh thì chỉ tỏa sáng bên trong, trong khi màu của các tổng hợp sắc do nhiệt sanh thì tỏa chiếu cả bên trong lẫn bên ngoài. Sự kết tụ của những màu phát sáng này hình thành ánh sáng xuất hiện quanh thân quý vị ở mọi hướng.
Dẫu sao quý vị cũng không nên tập trung vào ánh sáng, mà chỉ vào hơi thở. Lúc hơi thở thường trở nên vi tế, để biết hơi thở vi tế này, tấn, niệm và trạch pháp mạnh là rất cần thiết. Nếu biết được rõ ràng hơi thở vi tế nhờ các căn này mạnh, định của quý vị sẽ tăng thịnh. Khi định tăng thịnh, thông thường nimitta của hơi thở sẽ xuất hiện, và nó chỉ xuất hiện trước lỗ mũi.

Nimitta Của Hơi Thở Là Gì?

Nimitta của hơi thở là gì? Khi định tăng trưởng, hơi thở của quý vị sẽ xuất hiện như là một nimitta. Hơi thở cũng do tâm sanh. Nếu phân tích tứ đại của hơi thở, quý vị cũng sẽ thấy được ít nhất có chín yếu tố sắc, đó là đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất và âm thanh. Yếu tố màu của hơi thở lúc này phát sáng. Như tôi đã giải thích bên trên, yếu tố lửa (nhiệt) của các tổng hợp sắc này còn sản sinh ra các tổng hợp sắc mới với yếu tố màu phát sáng. Chính màu phát sáng của các tổng hợp sắc ấy tạo thành nimitta.
Khi lần đầu nimitta xuất hiện, nó thường không ổn định. Lúc ấy, quý vị không nên tập trung vào nó, chỉ tập trung vào hơi thở thôi. Khi định trên hơi thở trở nên ổn định và đủ sâu, nimitta lúc ấy cũng sẽ trở nên ổn định. Lúc đầu nimitta có màu xám xám. Khi định cải thiện, nimitta có màu trắng, và sau đó có màu trong, nimitta có màu trong đó được gọi là tợ tướng, paṭibhāga nimitta. Tùy thuộc vào tưởng của quý vị, mà nimitta sẽ thay đổi về hình dáng và màu sắc. Có lúc nó có thể dài, có lúc nó có thể tròn, đôi khi nó có màu đỏ, đôi khi nó có màu vàng. Dẫu sao quý vị cũng không nên chú ý đến màu hay hình dáng này, nếu không nó sẽ tiếp tục thay đổi. Nếu vậy, định sẽ thối giảm, quý vị sẽ không chứng thiền. Vì thế, quý vị nên tập trung trên hơi thở của mình cho đến khi tợ tướng hợp nhất với hơi thở và tâm của quý vị tự động dính vào tợ tướng. Lúc này quý vị chỉ nên tập trung vào nimitta thôi, mà không vào hơi thở. Nếu quý vị khi thì tập trung vào nimitta, khi thì tập trung vào hơi thở, định sẽ dần mất đi.
Lại nữa quý vị không nên để ý đến các đặc tính nào đó của tứ đại trong hơi thở cũng như trong nimitta, như là cứng, nhám, nặng, mềm, trơn, nhẹ, chảy, kết dính, nóng, lạnh, nâng đỡ và đẩy. Nếu chú ý đến những đặc tính này là quý vị đang hành thiền Tứ đại vậy, mà không phải thiền Niệm hơi thở.
Lại nữa, quý vị không nên chú ý hơi thở hay nimitta như là Vô thường, Khổ hay Vô ngã. Chúng là tướng chung. Tại sao? Các đối tượng của Vipassanā là các hành, saṅkhāra. Chúng là các sắc pháp, danh pháp và các nhân của chúng. Hơi thở và nimitta không phải là các sắc chân đế, mà chỉ là tính khối tưởng. Vì vậy chúng không phải là đối tượng của Vipassanā. Nếu chú ý đến chúng như là Vô thường, Khổ hay Vô ngã thì quý vị không đang hành Chỉ hay Quán gì cả.
Nếu nimitta của hơi thở có màu trăng trắng và sau đó nếu có thể tậo trung tốt vào nó, nó có thể trắng hơn và dần sáng như sao mai. Tâm của quý vị rồi sẽ tự động chìm vào trong nimitta ấy. Nếu tâm của quý vị chìm hẳn vào nimitta và trú yên trong ấy một thời gian lâu, thì trạng thái định ấy được gọi là an chỉ định. Đối với hành giả sơ cơ, đây là giai đoạn rất quan trọng. Tiến trình tương tự cũng được áp dụng với các nimitta có những màu khác.

Hai Loại Định

Có hai loại định: cận định (upacārajhāna) và an chỉ định (appanā jhāna). An chỉ định là trạng thái định hoàn toàn không gián đoạn của tâm lên đối tượng, như là ānāpāna paṭibhāga nimitta, tợ tướng của hơi thở. Vào giai đoạn này, không có tâm hữu phần xuất hiện giữa các sát-na tâm nhận biết tợ tướng của hơi thở. Các thiền chi lúc này đủ mạnh để giữ tâm trên đối tượng không gián đoạn. Trong cận định, tâm bắt đầu hợp nhất với đối tượng theo thời lượng tăng đều, nhưng đôi khi giữa những thời lượng này vẫn còn những lúc gián đoạn bởi các tâm hữu phần khởi sinh. Ở đây, năm thiền chi chưa đủ mạnh và sự nhất tâm chưa đủ sâu để thoát khỏi bất kỳ sự phân tâm nào.
Chú giải giải thích giai đoạn này bằng ví dụ về thai nhi Đức Chuyển Luân Thánh Vương trong bụng mẹ. Hoàng hậu khi mang thai Đức Chuyển Luân Vương, có thể thấy được con trai trong bào thai bằng đôi mắt của mình. Lúc bấy giờ bà hết sức thận trọng bảo vệ con trai khỏi tất cả các tai vạ. Cũng vậy, quý vị nên canh giữ nimitta của mình hết sức thận trọng và với sự kính trọng. Quý vị nên thực hành bằng sự nhiệt tâm, bằng Trí Tuệ và sự tỉnh giác, bởi vì một tâm biếng nhác, chểnh mãng hay thất niệm không thể làm nên sự khác biệt nào trong hành trình phát triển tâm linh. Trong mọi oai nghi, quý vị cần phải chánh niệm và tập trung trên nimitta của mình. Ví dụ như, trước khi bước đi, quý vị nên đứng ở một góc con đường, tập trung vào hơi thở. Khi nimitta xuất hiện và ổn định, quý vị nên tập trung vào nó. Khi định của quý vị trở nên mạnh và cực mạnh, quý vị nên bước đi chậm trong khi tâm vẫn tập trung vào chỉ nimitta thôi.
Khả năng tập trung trên nimitta trong mọi oai nghi là một dạng của năng lực ý chí. Quý vị có sức mạnh ý chí này. Vì thế xin hãy thực hành một cách nỗ lực. Quý vị có thể thành công. Nếu thực hành đều đặn, không lâu tâm của quý vị có thể chìm vào nimitta hoàn toàn. Đây là an chỉ định, còn gọi là bậc thiền. Mặc dù trong vài lần đầu, an chỉ định có thể không kéo dài, quý vị cũng không nên bỏ cuộc. Quý vị nên tập đi, tập lại. Nếu thực hành tinh tấn với Tuệ lực, Niệm lực mạnh, quý vị sẽ thành công trong việc duy trì định trên nimitta rất lâu.Vào giai đoạn đầu, trú lâu trong thiền cần được chú trọng nhiều hơn, ngược lại, việc suy xét các thiền chi cần được chế ngự. Nếu suy xét về các thiền chi thường xuyên, định của quý vị sẽ giảm. Vì thế xin hãy cố trú trong an chỉ định càng lâu càng tốt.

Suy Xét Các Thiền Chi

An chỉ định của quý vị cần phải ổn định và sâu. Khi nó ổn định và sâu liên tục cho được một hay hai giờ đồng hồ, đấy là một thành tựu tốt đẹp. Tôi muốn khuyên quý vị nên thực tập cho đến khi nào quý vị có thể trú trong an chỉ định cho được ít nhất ba giờ đồng hồ. Nếu quý vị có thể an trú trong nimitta đựơc hơn một giờ, hai giờ hay ba giờ trong mỗi thời ngồi, trong ba ngày liên tục, lúc ấy quý vị có thể suy xét về các thiền chi. Để làm vậy, trước tiên quý vị nên trú trong an chỉ định cho được hơn một tiếng. Sau khi xuất khỏi an chỉ định này, quý vị nên trực nhận phần bên trong trái tim để phân biệt Bhavaṅga ý căn hay tâm hữu phần, vốn sinh khởi nương nơi sắc ý căn (heart-base). Lúc đầu, thông thường nhiều hành giả sẽ chưa phân biệt được Bhavaṅga với nimitta. Khi họ trực nhận Bhavaṅga, họ sẽ thấy cũng nimitta ấy ở trong trái tim. Họ nghĩ ấy là Bhavaṅga. Nhưng thật ra nó không phải là Bhavaṅga, Bhavaṅga giống như tấm gương soi trong trái tim.
Này các tỷ kheo, tâm Bhavaṅga là sáng rực.”
Điều này đựơc đề cập trong chương Accharāsaṅghāta của Tăng chi bộ. Bhavaṅga là một loại tâm. Nó không phải là ánh sáng, nhưng nó sản sinh ra ánh sáng rực rỡ. Nó có thể sinh ra các tổng hợp sắc do tâm sanh. Và yếu tố lửa (hay nhiệt) trong các tổng hợp sắc này tiếp tục sinh ra nhiều tổng hợp sắc mới, do nhiệt sanh. Yếu tố màu trong hai dạng tổng hợp sắc này hiệp lại, phát sáng. Mức độ phát sáng tùy thuộc vào Tuệ lực tương ứng với tâm Bhavaṅga. Tuệ lực càng cao, ánh sáng càng mạnh. Vì thế nếu nghiệp lực sản sinh ra Bhavaṅga là thuộc Tuệ Minh Sát, Tuệ lực sẽ rất mạnh, và ánh sáng sẽ rất mạnh và rực rỡ. Do vậy mà Bhavaṅga là một thứ, và ánh sáng là một thứ khác.
Quý vị nên suy xét Bhavaṅga trong vài giây thôi, vì suy xét lâu, như hai hay ba phút chẵng hạn, tim quý vị có thể nhói đau và định sẽ giảm. Vậy nên nếu có thể suy xét Bhavaṅga trong vài giây, thì tốt rồi. Còn nếu chưa được, quý vị nên chú tâm trở lại trên nimitta của hơi thở cho đến khi an chỉ định của quý vị thật sâu và nimitta sáng rực trở lại. Lúc này quý vị có thể thử suy xét Bhavaṅga lần nữa. Nếu thực tập, thực tập lại cách này quý vị sẽ có thể trực nhận được Bhavaṅga. Khi có khả năng trực nhận được Bhavaṅga, quý vị nên tập trung lại vào nimitta cho đến khi an chỉ định của quý vị thật sâu và nimitta sáng mạnh. Và rồi khi trực nhận Bhavaṅga, quý vị sẽ thấy rằng nimitta xuất hiện bên trong Bhavaṅga, giống như khi mình nhìn vào tấm gương soi, quý vị sẽ thấy gương mặt mình. Và rồi quý vị nên trực nhận năm thiền chi, ấy là tầm, tứ, hỷ, lạc và nhất tâm.
  1. Tầm (vitakka): là trạng thái hướng và đặt tâm trên đối tượng, nimitta của hơi thở
  2. Tứ (vicāra): là trạng thái duy trì tâm trên đối tượng.
  3. Hỷ (pīti): là trạng thái thích thú đối với đối tượng.
  4. Lạc (sukha): là trạng thái an vui với đối tượng.
  5. Nhất tâm (ekaggatā): là trạng thái hợp nhất của tâm vào đối tượng.
Khi quý vị trực nhận năm thiền chi này, trước hết quý vị nên trực nhận từng thiền chi một. Sau khi đã trực nhận được từng thiền chi một, quý vị có thể trực nhận được năm thiền chi cùng lúc. Nếu quý vị có thể thực hành bước này tốt rồi, quý vị nên phát triển năm Pháp thuần thục.

Năm Pháp Thuần Thục

Pháp thuần thục đầu tiên quý vị nên thực hành là nhập định bất kỳ lúc nào quý vị muốn. Thứ hai là xuất khỏi định bất kỳ lúc nào mình muốn. Thứ ba là quý vị trú trong định cho được một giờ, hai giờ, ba giờ theo quyết định của mình Pháp thuần thục thứ tư và thứ năm thực sự được thực hiện trong cùng một bước, đó là, suy xét các thiền chi bất kỳ khi nào quý vị muốn và kỹ năng suy xét các thiền chi bằng ý căn hướng tâm được gọi là Pháp thuần thục hướng tâm đến các thiền chi, còn kỹ năng suy xét các thiền chi bằng các tốc hành tâm trong cùng tiến trình tâm suy xét thiền chi với ý căn hướng tâm, được gọi là Pháp thuần thục trong xét duyệt các thiền chi. Đây là sự khác nhau duy nhất. Nếu có thể thành công với năm Pháp thuần thục này, quý vị có thể thực hành lên nhị thiền, tam thiền, tứ thiền một cách có hệ thống. Trong sơ thiền, hơi thở trở nên vi tế, ở nhị thiền hơi thở vi tế hơn, ở tam thiền hơi thở vi tế hơn nữa, và đến tứ thiền hơi thở ngừng hẳn.
Tôi đã hỏi nhiều thiền sinh bậc thiền nào họ cho là tốt nhất. Rất nhiều vị nói là nhị thiền là được hơn sơ thiền, tam thiền thì thích hơn nhị thiền, nhưng tứ thiền là tuyệt nhất trong bốn bậc thiền.
Sự thành tựu này là do năng lực ý chí. Mọi người đều có năng lực ý chí. Quý vị nên thực hành một cách tinh tấn trong Giáo Pháp của Đức Phật vốn là một cơ hội hiếm thay (viriyavato kiṃ nāma kammaṃ na sijjhati!). Với một người có nỗ lực lớn lao, có đủ quyết tâm và Trí Tuệ, với người ấy không có gì là không thể đạt được cả. Nếu quý vị nỗ lực thực hành, mọi cái đều trở thành “có thể” cho quý vị. Quý vị có thể thành công trong chứng đạt hết bốn tầng thiền.
Sau khi đạt được tứ thiền, nếu muốn thực hành các đề mục thiền chỉ khác, như là mười biến xứ (hay kasiṇa), bốn Phạm trú, quý vị có thể thực tập chúng dễ dàng. Nếu muốn thực hành Vipassanā dựa trên tứ thiền của Niệm hơi thở, quý vị cũng có thể thực hành tiếp như vậy. Có hai dạng thực hành Vipassanā dựa vào tứ thiền niệm hơi thở: dạng assāsapassāsa kammika và dạng jhānakammika. Họ dịch assāsapassāsa kammika là người thực hành niệm hơi thở và jhāna kammika như là hành giả thực hành thiền chỉ. Phần phiên dịch này chưa chính xác. Vì thế tôi sẽ giải thích làm cách nào hai dạng hành giả này thực hành Vipassanā dựa trên tứ thiền.
Trong thiền chỉ, có bốn mươi đề mục, nhưng trong Vipassanā, chỉ có hai đề mục, ấy là phân biệt sắc (rūpakammaṭṭhāna) và phân biệt danh (nāmakammaṭṭhāna). Đôi khi họ còn gọi là rūpa pariggaha và arūpa pariggaha một cách tương ứng. Nếu một hành giả đã đạt đến tứ thiền Ānāpāna (thiền niệm hơi thở), rồi hành phân biệt sắc trước, người ấy được gọi là hành giả assāsapassāsa kammika. Nếu hành giả phân biệt danh trước, vị ấy phải phân biệt năm thiền chi trước, và vị ấy được gọi là hành giả jhānakammika.

Hành Giả Assāsakammika
(Hành giả phân biệt sắc trước)
và Làm Cách Nào Phân Biệt Sắc

Một hành giả Assāsapassāsa Kammika (tức là hành giả phân biệt sắc trước), sau khi rời khỏi tứ thiền Ānāpāna (tức tứ thiền thiền Niệm hơi thở), đi phân biệt mười hai đặc tính của tứ đại trong hơi thở, ấy là cứng, nhám, nặng, mềm, trơn, nhẹ, chảy, kết dính, nóng, lạnh, nâng đỡ, đẩy. Nhóm lại theo mỗi đại, chúng ta có bốn đại: cứng, nhám, nặng, mềm, trơn, nhẹ hình thành ra yếu tố đất; chảy và kết dính hình thành ra yếu tố nước; nóng và lạnh hình thành ra yếu tố lửa; nâng đỡ và đẩy hình thành ra yếu tố gió. Vị ấy nên phân biệt tứ đại trong hơi thở theo trình tự có hệ thống. Nếu thực hành vậy, hành giả có thể thấy được rất nhiều tổng hợp sắc. Nếu hành giả phân tích các tổng hợp sắc ấy, có thể thấy được có ít nhất chín yếu tố sắc trong mỗi tổng hợp sắc, ấy là đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất và âm thanh. Chín yếu tố sắc này được gọi là thân của hơi thở vào và hơi thở ra (assāsapassāsa kāya).
Sau khi phân biệt thân của hơi thở vào và hơi thở ra, vị ấy nên suy xét như vầy: “Dựa vào đâu mà nó sinh khởi?” Trong khi suy xét, vị ấy thấy rằng nó khởi sinh dựa trên một căn. Căn là gì? Theo Vi diệu Pháp Abhidhammā, có sáu căn, ấy là nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và sắc ý căn (heart-base). Theo phương pháp trong Kinh tạng (Suttanta), căn là thân y sinh, tức là thân được sinh ra (karajakāya), bao gồm bốn loại sắc:
  1. Sắc do nghiệp sanh, kammaja rūpa
  2. Sắc do tâm sanh, cittaja rūpa
  3. Sắc do nhiệt sanh, utuja rūpa
  4. Sắc do vật thực sanh, āhārajarūpa
Tại sao có sự khác nhau? Vì phương pháp trong Kinh Tạng là để học sự hành, trong khi phương pháp trong Vi diệu Pháp là để cho thấy nghĩa chân xác. Chẳng hạn như khi phân biệt tứ đại trong con mắt mình một cách hệ thống, quý vị sẽ thấy sáu loại tổng hợp sắc. Một trong sáu loại này là tổng hợp sắc có thần kinh mắt là yếu tố thứ mười (gọi tắt là mắt-thập-sắc, cakkhu-dasaka-kalāpa). Nếu phân tích nó, quý vị sẽ thấy có mười yếu tố sắc của nó, ấy là đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất, mạng căn và sắc thần kinh mắt (cakkhu pasāda). Trong số mười yếu tố chỉ có sắc thần kinh mắt là nhãn căn. Mặc dù chín yếu tố sắc còn lại trong mắt-thập-sắc này không phải là nhãn căn, nhưng chúng có nhãn căn đồng hành, bởi vì tất cả chúng sanh lên và diệt đi cùng lúc như một nhóm. Nếu không thể phân tích chúng, quý vị không thể phá vỡ tính khối tưởng của nhóm (samūha ghana) để thấy rõ sắc chân đế. Do không phân tích các tổng hợp sắc, chúng ta không thể thấy được nhãn căn, nên phương pháp tạng Kinh nói rằng căn là tác sanh thân, tức là thân được sinh ra (karaja kāya = produced body). Giải thích tương tự cho nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn và sắc ý căn.
Mắt thập pháp không thể sinh khởi một mình. Nếu phân biệt tứ đại trong con mắt theo trình tự hệ thống, quý vị sẽ thấy nhiều loại tổng hợp sắc. Nếu dùng tay để chạm con mắt, quý vị biết rõ cảm giác đụng chạm. Bởi vì trong con mắt có thân-thập-sắc (kāya-dasaka-kalāpa), tức là tổng hợp sắc có sắc thần kinh thân là yếu tố thứ mười. Thức thân (kāya viññāna) vốn biết cảm giác đụng chạm, khởi sanh chỉ nương nơi thân căn. Trong con mắt của quý vị, còn có các tánh-thập-sắc (bhāva-dasaka-kalāpa), tức là các tổng hợp sắc có sắc giới tánh là thứ mười. Nhờ có sắc xác định giới tính (bhāva rūpa) này mà quý vị có thể hiểu được, “đây là người nữ” và “đây là người nam”. Mắt-thập-sắc, thân-thập-sắc và tánh-thập-sắc được sanh ra do Nghiệp đời trước, nên chúng được gọi là sắc do nghiệp sanh (kammaja rūpa). Bởi vì quý vị có thể chớp mắt như ý, nên chúng ta biết rằng trong cặp mắt này của chúng ta cũng có sắc do tâm sanh (cittaja rūpa) vốn sai khiến sự biểu lộ bằng thân, tạo ra động tác chớp mắt.Trong mỗi tổng hợp sắc, có yếu tố lửa. Yếu tố lửa có thể sản sinh nhiều thế hệ các tổng hợp sắc mới, được gọi là sắc do nhiệt sanh (utuja rūpa). Trong mỗi tổng hợp sắc, đều có dưỡng chất (oja). Khi dưỡng chất có trong các tổng hợp sắc do vật thực sanh (āhārajarūpa) hỗ trợ, chính dưỡng chất này có trong các tổng hợp sắc khác, nó sản sinh ra các thế hệ tổng hợp sắc do vật thực sanh mới (āhāraja-rūpa). Vậy là trong con mắt của quý vị, có tổng cộng sáu loại tổng hợp sắc. Nếu phân tích chúng, quý vị có thể thấy, có tổng cộng năm mươi bốn loại sắc. Để phá tan tính khối tưởng, quý vị cần cố gắng để thấy năm mươi bốn loại sắc này.
Lúc ấy, quý vị nên đi trực nhận hay phân biệt (discern) sáu căn và bốn mươi hai phần thuộc thân theo cùng cách. Trong mỗi phần thuộc thân, thông thường có bốn loại sắc: sắc do nghiệp sanh, sắc do tâm sanh, sắc do nhiệt sanh và sắc do vật thực sanh.

Hai Mươi Tám Loại Sắc

Chú giải có giải thích gì là tác sanh thân (karaja kāya). Tác sanh thân này được hình thành từ sắc tứ đại và các sắc do tứ đại sanh. Điều có nghĩa gì? Trong mỗi tổng hợp sắc có bốn sắc tố chính, là đất, nước, lửa, gió và các sắc do tứ đại sanh như: màu, mùi, vị, và dưỡng chất. Thật ra có tổng cộng hai mươi tám loại sắc: bốn sắc tứ đại (hay bốn đại chủng) và hai mươi bốn sắc do tứ đại sanh (hay sắc y đại sanh).
Hai mươi bốn sắc ấy là:
Năm loại tịnh sắc, (pasāda rūpa), tức là năm loại sắc thần kinh:
  1. Nhãn tịnh sắc (cakkhu-pasāda), hay sắc thần kinh mắt.
  2. Nhĩ tịnh sắc (sota-pasāda), hay sắc thần kinh tai.
  3. Tỷ tịnh sắc (ghāna-pasāda), hay sắc thần kinh mũi.
  4. Thiệt tịnh sắc (jivhā-pasāda), hay sắc thần kinh lưỡi.
  5. Thân tịnh sắc (kāya-pasāda), hay sắc thần kinh thân.
Bốn loại Hành cảnh sắc (gocāra-rūpa, sense-field materiality):
  1. Màu (vaṇṇa)
  2. Âm thanh (sadda)
  3. Mùi (gandha)
  4. Vị (rasa)
Dưỡng chất (ojā)
Sắc mạng căn (jīvitindriya)
Sắc trái tim, hay tâm cơ, hay sắc ý căn (hadaya-rūpa)
Hai loại sắc tánh (bhāva-rūpa):
  1. Sắc tánh nam
  2. Sắc tánh nữ.
Mười loại sắc không thực gồm:
  1. Sắc hư không (Ākāsa dhātu)
  2. Thân biểu tri (kāyaviññatti)
  3. Khẩu biểu tri (vacīviññatti)
  4. Sắc khinh (lahutā)
  5. Sắc nhu (mudutā)
  6. Sắc thích ứng (kammaññatā)
  7. Sắc sinh (upacaya)
  8. Sắc tiến (Santati)
  9. Sắc dị (jaratā)
  10. Sắc diệt (aniccatā)
Quý vị phải phân biệt tất cả các loại sắc này.
Nếu chỉ quán sắc pháp là Vô thường, Khổ và Vô ngã thì chưa đủ để cho quý vị chứng ngộ Niết-bàn. Mà quý vị còn phải quán thêm danh pháp là Vô thường, Khổ và Vô ngã nữa. Khi trực nhận danh, định bậc thiền là pháp tốt nhất để quý vị phân biệt trước tiên vì quý vị đã thành thạo trong việc phân biệt các thiền chi. Rồi thì quý vị phải trực nhận danh cõi dục giới (kammavācāra nāma) theo tâm lộ trình và tâm ngoài lộ trình. Vì thế chú giải có giải thích như sau: Lúc ấy, hành giả nhận biết danh pháp trong tập hợp các tâm hành bắt đầu từ xúc, như xúc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong số năm tâm hành này, thọ là một uẩn, thọ uẩn. Tất cả có năm uẩn, trong số năm uẩn này, chú giải chỉ đề cập xúc và tư như là hành uẩn bởi vì chúng là các yếu tố nổi trội của hành uẩn. Khi hai yếu tố nổi trội này được đề cập, các tâm hành còn lại cũng đã được bao hàm đi theo cùng lúc. Nó giống như chuyến kinh lí của nhà vua. Khi đức vua đi đâu, đoàn tùy tùng của vua theo vua đến đấy.
Sau khi trực nhận danh và sắc, hành giả khảo sát các nhân của chúng. Vị ấy thấy rằng các nhân chính của năm thủ uẩn là vô minh (avijjā), tham ái (taṇhā), thủ (upādāna), hành (saṅkhāra) và nghiệp (kamma). Chúng được làm cho sinh khởi bởi vị ấy trong đời trước. Chúng tạo ra thức tái sanh cùng với bốn thủ uẩn kia trong đời sống hiện tại. Vị ấy nên gắng thấy quan hệ Nhân Quả giữa các nhân và các quả. Đây là lý Duyên Khởi. Lúc ấy, hành giả sẽ kết luận rằng danh pháp và sắc pháp chỉ là các pháp hữu vi và là pháp sinh khởi do duyên và ngoài những bản chất này ra, chúng không phải là một chúng sanh đang sống mà cũng chẳng phải là một con người. Lúc ấy hành giả vượt qua nghi ngờ về bản chất của sắc pháp và danh pháp và các nhân của chúng.
Khi đã vượt nghi, hành giả quán sát ba tướng: Vô thường, Khổ và Vô ngã của danh và sắc và các nhân của chúng, và dần dần đạt đến A-la-hán. Loại hành giả này được gọi là assāsapassāsakammika, tức là hành giả bắt đầu Vipassanā bằng quán sắc pháp dựa vào tứ thiền Ānāpāna.

Hành giả Jhānakammika

Tôi muốn giải thích về hành giả jhānakammika. Sau khi đạt được bậc thiền của Niệm hơi thở, hành giả phân biệt danh pháp trước khi phân biệt sắc pháp. Vì khi thực hành thiền chỉ, hành giả vốn dễ dàng phân biệt được các thiền chi, khi bắt đầu thực hành Vipassanā, vị ấy phân biệt các thiền chi trước tiên. Kế đó vị ấy các tâm hành khởi sinh cùng với các thiền chi. Các tâm hành ấy cùng với các thiền chi được gọi là các thiền pháp. Sau khi phân biệt chúng, hành giả phải khảo sát như vầy: Nương vào đâu mà các thiền pháp này sinh khởi? Và rồi hành giả thấy rằng nương vào sắc ý căn (heart-base). Theo giải thích của tạng Kinh, sắc ý căn là tác sanh thân, tức là thân được sinh ra (produced body, karaja kāya), bao gồm bốn loại sắc: sắc do nghiệp sanh, sắc do tâm sanh, sắc do thời tiết sanh và sắc do vật thực sanh. Sau đó, hành giả cũng cần phân biệt danh pháp của cõi dục giới và tất cả các sắc pháp khác.
Các thiền pháp và danh pháp cõi dục giới là danh pháp và tác sanh thân là sắc pháp. Sau khi đã phân biệt chúng, hành giả phải khảo sát các nhân của chúng. Vị ấy thấy được các nhân bằng sự thấu suốt được vòng duyên khởi bắt đầu từ vô minh. Lúc ấy, hành giả sẽ kết luận rằng danh pháp và sắc pháp chỉ là các pháp hữu vi và là pháp sinh khởi do duyên và ngoài những bản chất này ra, chúng không phải là một chúng sanh đang sống mà cũng chẳng phải là một con người. Nhờ vậy hành giả vượt qua nghi ngờ.
Khi đã vượt nghi, hành giả quán sát ba tướng: Vô thường, Khổ và Vô ngã của danh, sắc và các nhân của chúng, và dần dần đạt đến A-la-hán. Loại hành giả này được gọi là jhānakammika, tức là hành giả bắt đầu Vipassanā bằng quán danh pháp dựa vào tứ thiền Ānāpāna.
Nếu quý vị hiểu được phần giải thích này, quý vị sẽ hiểu những lời dạy sau đây của Đức Phật. Trong Kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật dạy thiền Vipassanā dựa vào phương pháp Niệm hơi thở, Ānāpānasati như sau:
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân.”
Đây là giai đoạn bắt đầu của thiền Vipassanā cho một hành giả đã thực hành thiền Niệm hơi thở Ānāpāna đạt đến tứ thiền. Gì là “thân”, kāya? Theo Bộ Vô Ngại Giải Đạo, Paṭisambhidāmagga, có ba loại thân:
  1. Thân hơi thở vào và hơi thở ra (assasāpassāsa kāya)
  2. Tác sanh thân, tức thân được sinh ra, (karaja kāya)
  3. Thân của danh pháp (nāma kāya)
Tôi đã giải thích về chúng phần trước. Tôi hy vọng quý vị giờ đã hiểu.

Làm Thế Nào Để Phân Biệt Danh

Tôi đã giải thích làm thế nào để phân biệt sắc một cách tóm tắt. Giờ đây tôi muốn giải thích làm thế nào để phân biệt danh. Nếu quý vị muốn phân biệt, ví dụ như các pháp sơ thiền Ānāpāna, quý vị nên trước tiên nhập sơ thiền Ānāpāna. Sau khi xuất khỏi sơ thiền, quý vị nên phân biệt Bhavaṅga, tức là ý căn. Khi nimitta xuất hiện trong ý căn, quý vị nên phân biệt năm thiền chi. Khi thực hành thiền Định, quý vị đã có thể phân biệt chúng, nên điều này không khó với quý vị. Điều duy nhất khác nhau ở đây là quý vị nên phân biệt năm thiền chi xuất hiện (hay xảy ra) liên tục nhiều lần. Nếu có thể trực nhận chúng rõ ràng, quý vị có thể bắt đầu phân biệt, chẳng hạn như, tâm. Có ba cách để có thể bắt đầu phân biệt danh:
  1. Bắt đầu bằng xúc
  2. Bắt đầu bằng thọ
  3. Bắt đầu bằng thức (hay còn gọi là tâm)
Nếu bắt đầu bằng tâm, có đặc tính là nhận biết đối tượng, quý vị nên trực nhận tâm xuất hiện liên tục nhiều lần. Nếu thấy mình không thể phân biệt được, quý vị nên lặp lại quy trình vừa mới đề cập trên: nhập sơ thiền, rồi xuất khỏi sơ thiền và phân biệt ý căn. Khi nimitta xuất hiện nơi ý căn, quý vị nên phân biệt tâm xuất hiện liên tục nhiều lần. Nếu có thể phân biệt được tâm rồi, quý vị nên tăng thêm số danh pháp mà quý vị trực nhận, mỗi lần thêm một tâm hành, lần đầu là tâm, lần sau thêm một xúc nữa thành hai (tâm, xúc), lần sau thêm một tâm hành nữa thành ba, thêm một tâm hành nữa thành bốn,. .. cho đến hết ba mươi bốn tâm hành của sơ thiền.
Ba mươi bốn tâm hành của sơ thiền là gì? Chúng là: tâm (hay thức), xúc, thọ (lạc), tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý, tầm, tứ, thắng giải, tấn, hỷ, dục, tín, niệm, tàm, quý, vô tham, vô sân, xã trung tánh, tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm, nhu thân, nhu tâm, thích thân, thích tâm, thuần thân, thuần tâm, chánh thân, chánh tâm, tuệ quyền.
Trong số ba loại thân mà tôi đề cập mới đây, thân của hơi thở vào và hơi thở ra và tác sanh thân là thân của sắc, hay còn gọi là sắc thân (rūpa kāya). Vậy nên chúng ta có thể nói, chỉ có hai loại thân, sắc thân (rūpa kāya) và danh thân (nāma kāya). Tại sao chúng được gọi là thân? Lý do là chúng không thể khởi sinh một mình mà phải khởi sinh như là một nhóm. Xin hãy lưu ý rằng ở đây thân (kāya) có nghĩa là thân của sắc pháp chân đế và thân của danh pháp chân đế.

Quán Thân Trên Ngoại Thân

Quý vị cần quán các thân trên các ngoại thân này. Tuy nhiên, quán chỉ có nội thân, không đủ để chứng ngộ Niết-bàn. Quý vị còn phải quán cả ngoại thân nữa. Tại sao? Quý vị có tham ái, ngã mạn và tà kiến không chỉ với nội thân chính mình mà còn với cả nhiều thân bên ngoài. Để loại bỏ được tham ái, ngã mạn và tà kiến về các ngoại thân đó, quý vị cần quán thân trên các ngoại thân. Quý vị có thể có kiêu mạn dựa vào thành tựu của con trai, chồng hay vợ của quý vị. Để loại bỏ kiêu mạn này, quý vị cần quán các thân của họ là Vô thường. Để loại bỏ tham ái, dính mắc vào ngoại thân, quý vị cần quán chúng là Khổ. Quý vị có thể nghĩ: “đây là con trai của tôi, đây là con gái của tôi, đây là vợ tôi, hay đây là chồng tôi”. Để loại bỏ các tà kiến này, quý vị nên quán các thân của họ là Vô ngã. Nếu quán thế giới bên ngoài bằng Minh Sát Tuệ, quý vị sẽ chỉ thấy toàn là danh-sắc chân đế. Danh và sắc chân đế là Vô thường vì ngay khi vừa mới sanh lên, chúng diệt đi; là Khổ vì chúng luôn luôn bị đàn áp bởi các hiện tượng sanh và diệt, là Vô ngã vì không có tự ngã thường hằng hay một chất liệu ổn địnhmà quý vị có thể gọi: “đây là con trai của tôi, đây là con gái tôi, đây là chồng của tôi, đây là vợ của tôi, v.v..” Nếu quán theo cách này, việc quán này sẽ làm giảm sự dính mắc, ngã mạn và tà kiến của quý vị. Vì thế Đức Phật dạy:
Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân.”
Tại sao Đức Phật dạy như vậy? Đối với người mới bắt đầu, để quán thân trên nội thân trong một thời ngồi là không đủ. Quý vị phải thực tập nhiều ngày, thậm chí nhiều tháng. Và rồi, quý vị còn phải quán thân trên ngoại thân nữa. Đối với người mới bắt đầu, phần thực hành này mất vài ngày. Sau đó, trong một thời ngồi, quý vị nên quán thân trên thân, nội thân lẫn ngoại thân, lặp đi lặp lại. Quán chỉ một lần không đủ. Quán đi quán lại là cần thiết. Chỉ khi quý vị quán đi quán lại, quý vị mới có thể đè nén tham ái, ngã mạn, tà kiến và những phiền não.

Bốn Giai Đoạn Phân Tích Danh-Sắc

Theo sự phân loại các Minh Sát Trí, đây chỉ là Danh Sắc Phân Định Trí (Nāma rūpa pariccheda ñāṇa). Nó chỉ là giai đoạn bắt đầu của Kiến thanh tịnh và là nền tảng của Vipassanā. Trí này chia làm bốn giai đoạn:
  1. Sắc Phân Biệt Trí lúc phân biệt sắc riêng (rūpa-pariggaha-ñāṇa),
  2. Danh Phân Biệt Trí lúc phân biệt danh riêng (arūpa-pariggaha-ñāṇa),
  3. Danh-Sắc Phân Biệt Trí lúc phân biệt danh-sắc cùng nhau (rūpārūpa-pariggaha-ñāṇa),
  4. Danh-Sắc Phân Định Trí lúc phân biệt danh-sắc cùng nhau (nāma rūpa vavaṭṭhāna ñāṇa hoặc nāma rūpa pariccheda ñāṇa) và thấy rằng không có ngã tồn tại, không người, không có hữu tình trong đó, mà chỉ có danh và sắc.
Vì vậy, ở giai đoạn này, quý vị nên thực hành bốn bước sau:
  1. Phân biệt sắc bên trong và sắc bên ngoài.
  2. Phân biệt danh bên trong và danh bên ngoài.
  3. Phân biệt danh-sắc bên trong và danh-sắc bên ngoài.
  4. Phân định danh-sắc bên trong và bên ngoài.
Đây là giai đoạn đầu của thiền Vipassanā được đề cập trong kinh Đại Niệm Xứ.
Vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân”
Trong giai đoạn này, ba Tuệ Minh Sát hay Minh Sát Trí được kết hợp cùng nhau:
  1. Duyên Xác Định Trí (Paccaya pariggaha ñāṇa), vốn phân biệt nhân và quả
  2. Khảo Sát Trí (sammasana ñāṇa), vốn tuệ tri ba đặc tướng của các hành
  3. Sanh Diệt Trí (udayabbaya ñāṇa), vốn tuệ tri sự sinh diệt của các hành, như là Vô thường, Khổ và Vô ngã.

Có hai loại Sanh và Diệt

Có hai loại sanh và diệt của các hành (udayabbaya ñāṇa):
  1. Sanh và diệt của các hành do nhân duyên (paccayato udayabbaya).
  2. Sanh và diệt của các hành trong từng sát-na (khaṇato udayabbaya).
Sanh và diệt do nhân duyên được chia làm hai loại: sanh do duyên sanh và diệt do duyên diệt. Bởi sự sinh khởi của nhân mà năm uẩn sinh lên, đây là sự sanh do duyên sanh. Do bởi sự diệt tận không còn dư sót của nhân mà ngũ uẩn tận diệt không còn dư sót. Đây là sự diệt do duyên diệt.
Ngũ thủ uẩn cũng chính là danh-sắc. Hai mươi tám loại sắc hình thành sắc uẩn. Thọ là thọ uẩn. Tưởng là tưởng uẩn. Tất cả các tâm sở còn lại là hành uẩn. Sáu loại thức hình thành thức uẩn. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là danh. Vậy ngũ uẩn thủ cũng chính là danh-sắc. Quý vị nên phân biệt sự sanh do duyên sanh của danh-sắc hay ngũ thủ uẩn như thế nào? Đây là giai đoạn thứ hai của thiền Vipassanā được Đức Phật dạy trong kinh Đại Niệm Xứ. Quý vị không nên bỏ qua giai đoạn trong phần thực hành của mình. Xin hãy một lần nữa lắng nghe những gì ở giai đoạn đầu: Quý vị phải phân biệt sắc bên trong lẫn bên ngoài. Quý vị phải phân biệt danh bên trong lẫn bên ngoài. Quý vị phải phân biệt danh-sắc cùng nhau bên trong lẫn bên ngoài. Quý vị phải phân định danh-sắc cả bên trong lẫn bên ngoài. Chỉ sau giai đoạn này, quý vị mới tiến đến giai đoạn thứ hai

Sự Sanh Do Duyên Sanh của Danh và Sắc.

Quý vị nên trực nhận sự sanh do duyên sanh của danh-sắc như thế nào? Sau khi phân biệt danh-sắc bên trong và bên ngoài, quý vị nên trực nhận danh-sắc quá khứ gần nhất, như lúc liền ngay trước khi quý vị bắt đầu thời thiền tọa. Trước khi bắt đầu ngồi thiền, xin hãy cúng dường Đức Phật ngọn đèn cầy, hay nước hay hoa gì đấy và nguyện trở thành Tỷ-khưu trong tương lai. Sau khi ngồi xuống, xin hãy chú ý các tiến trình tâm khởi lên lúc nãy khi cúng dường cho Đức Phật và nguyện ước được làm Tỷ-kheo. Đây chính là các danh pháp. Chúng là nghiệp luân (kamma-vaṭṭa) và phiền não luân (kilesa-vaṭṭa). Chúng khởi sinh tùy thuộc vào các căn tương ứng của chúng, chính là các sắc pháp. Quý vị phải phân biệt danh và sắc quá khứ gần nhất như thể quý vị đang phân biệt danh-sắc bên ngoài. Sau khi phân biệt danh-sắc quá khứ gần nhất, quý vị nên từ từ phân biệt ngược dần lui quá khứ, cho đến sát-na tâm tái sanh (patisandhi), tức là sát-na đầu tiên của đời sống hiện tại.
Nếu có thể phân biệt danh-sắc vào lúc tái sanh, quý vị nên phân biệt ngược dần về danh-sắc trong đời trước. Nếu trực nhận theo cách này, quý vị có thể sẽ trực nhận được danh-sắc của tâm tái sanh (patisandhi) của đời trước. Lúc ấy, một trong ba ấn tướng thường xuất hiện trong ý căn của quý vị. Ba ấn tướng đó là: nghiệp (kamma), nghiệp tướng (kamma nimitta), và thú tướng (gati nimitta) là cảnh giới nơi quý vị sẽ tái sanh.
Tôi sẽ cố gắng giải thích điều này bằng một trường hợp. Một hành giả phân biệt danh-sắc của cận tử tâm trong đời trước. Vị ấy thấy nghiệp tướng đó là một người nam đang cúng dường ngọn đèn cầy đến một tượng Phật. Sau khi thấy nghiệp tướng ấy, hành giả này tiếp tục phân biệt danh-sắc của hình ảnh người nam đang cúng dường đèn cầy ấy. Hành giả này phân biệt bằng cách nào? Vị ấy phân biệt tứ đại trong hình ảnh người nam ấy một cách có hệ thống. Vị ấy thấy các tổng hợp sắc và tiếp tục phân tích các tổng hợp sắc đó để thấy sắc chân đế. Kế đó, vị ấy chủ yếu phân biệt năm mươi bốn loại sắc nơi trái tim và chú ý đến sắc ý căn (heart-base), bởi vì mọi tâm của ý căn sinh khởi dựa vào sắc ý căn. Khi làm như vậy, hành giả ấy thấy được ý căn, Bhavaṅga, một cách rõ ràng. Nhiều đối tượng khác nhau xuất hiện nơi ý căn (Bhavaṅga). Hành giả ấy trực nhận ý căn lui tới và lặp đi, lặp lại. Tại sao? Vì giữa các tâm hữu phần (cũng được gọi là Bhavaṅga), thường có các tiến trình tâm xảy ra. Khi hành giả trực nhận các Bhavaṅga ấy, vị ấy có thể dễ dàng phân biệt các tiến trình tâm ấy. Vị ấy thấy rằng khi người nam kia cúng dường ngọn đèn cầy đến tượng Phật, người ấy nguyện trở thành một vị Tỷ-khưu pháp hành trong đời sau. Cái tâm đang cúng dường sinh khởi theo chuỗi các lộ trình tâm qua ý căn. Mỗi lộ trình tâm này bao gồm một ý môn hướng tâm (manodvārāvajjana) và bảy tốc hành tâm (javana). Trong ý môn hướng tâm có mười hai tâm hành. Chúng là: tâm, xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý, tầm, tứ, thắng giải và tấn. Trong mỗi tốc hành tâm này có một tâm và ba mươi ba tâm sở. Chúng là: tâm, xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý, tầm, tứ, thắng giải, tấn, hỷ, dục, tín, niệm, tàm, quý, vô tham, vô sân, xã trung tánh, tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm, nhu thân, nhu tâm, thích thân, thích tâm, thuần thân, thuần tâm, chánh thân, chánh tâm, tuệ quyền. Ba mươi tư tâm hành này được gọi là hành (saṅkhāra). Trong số một tâm và ba mươi ba tâm sở này, tư là nổi trội nhất. Tư là nghiệp. Ngay khi vừa khởi sanh, các tâm hành ấy liền mất ngay bởi chúng là Vô thường. Nhưng chúng để lại nghiệp lực trong tiến trình danh-sắc của người ấy. Trong phần Nghiệp Duyên (Kammapaccaya) của Duyên Hệ (Paṭṭhana), Nghiệp lực được gọi là Nghiệp.
Tiếp theo hành giả ấy trực nhận cái tâm chú nguyện muốn trở thành Tỷ-kheo pháp hành của người nam ấy. Nó cũng khởi sinh thành một lộ trình tâm ý môn. Mỗi lộ trình tâm ý môn cũng gồm một ý môn hướng tâm và bảy tốc hành tâm. Ý căn hướng tâm cũng bao gồm mười hai tâm hành như đã nêu trên. Trong tốc hành tâm, có hai mươi tâm hành. Chúng là: tâm, xúc, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn, tác ý, tầm, tứ, thắng giải, tấn, hỷ, dục, si, vô tàm, vô quý, trạo cử, tham và tà kiến. Trong số hai mươi tâm hành này, vô minh, tham, thủ là nổi trội. Vô minh là gì? Theo giáo lý của Đức Phật, thân tâm của chúng ta chỉ là sắc chân đế và danh chân đế. Nếu chúng ta biết rõ chúng là danh và sắc, cái thấy này là đúng. Đấy là Tuệ Giác, là Chánh Kiến. Nhưng nếu thấy chúng như là đàn ông, đàn bà, vị Tỷ-khưu, hay Tỷ-khưu-ni, cái thấy này là sai. Điều này được gọi là vô minh hay sự si mê.
Do bởi vô minh, người ấy nguyện trở thành Tỷ-khưu pháp hành, đây là tham ái. Vị ấy chấp thủ hay dính mắc vào đời sống của vị Tỷ-khưu pháp hành ấy. Đây là thủ. Vô minh, tham ái và thủ được gọi là phiền não luân, tức là những phiền não mà sinh ra vòng luân hồi.
Tổng cộng, có năm nhân quá khứ: vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp.
Tiếp đến hành giả ấy trực nhận năm uẩn của tâm tái sinh trong đời hiện tại của mình. Vào lúc ấy, có ba mươi loại sắc. Chúng sanh lên như ba loại tổng hợp sắc, đó là thân-thập-sắc, tánh-thập-sắc và đoàn-tâm (hay tổng hợp mười sắc thuộc trái tim). Trong mỗi loại tổng hợp sắc, có mười loại sắc.
Rồi hành giả ấy trực nhận lui tới giữa ba mươi loại sắc này và năm nhân quá khứ, vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp. Vị ấy chú tâm vào nghiệp lực để kiểm tra xem nó có tạo ra ba mươi sắc kia hay không? Vị ấy kiểm tra đi kiểm tra lại và có thể thấy được đúng nó tạo ra. Đây là trường hợp của một hành giả.
Nếu thực hành theo cách này, quý vị có thể dễ dàng hiểu nghiệp lực tích lũy trong đời trước của quý vị đã tạo ra sắc uẩn ở sát-na tâm tái sanh. Như thế nào? Lúc này quý vị nên đã hiểu rõ làm cách nào mà các tâm sinh khởi nương nơi sắc ý căn sản sinh ra các sắc do tâm sanh, và nên đã hiểu rõ quan hệ nhân quả của chúng. Theo cách tương tự, có mối quan hệ nhân quả giữa nghiệp lực và sắc do nghiệp sanh. Nếu thấy được mối quan hệ này, quý vị nên trực nhận rằng do có sự sinh khởi của vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp mà sắc đã khởi sinh ở sát-na tâm tái sanh hay kiết sanh thức.
Kế đến, quý vị cũng nên phân biệt mối quan hệ nhân quả giữa nghiệp lực trong đời trước và danh của đời hiện tại của mình ở sát-na tâm tái sinh. Tiếp đến quý vị nên trực nhận mối quan hệ nhân quả giữa nghiệp lực và các uẩn kết quả trong suốt đời sống hiện tại của mình. Đặc biệt quý vị nên chú tâm đến các lộ trình tâm qua sáu căn của mình. Quý vị nên trực nhận rằng do có sự khởi sinh của vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp lực mà sắc uẩn sinh khởi. Vô minh, tham ái, thủ, hành, nghiệp lực là các nhân và sắc uẩn là quả. Đây là phần phân biệt sự sinh khởi các hành theo duyên. Tuệ giác trực nhận điều này được gọi là Duyên Xác Định Trí (paccaya pariggaha ñāṇa).

Quán Tánh Diệt

Sau khi đã dạy phần phân biệt sự sinh khởi các hành do duyên, Đức Phật dạy:
Hay vị ấy sống (an trú) quán tánh diệt trên thân”.
Điều này có nghĩa là quý vị cũng nên trực nhận rằng do bởi sự diệt của năm nhân không còn dư sót mà năm uẩn diệt tận không còn dư sót. Đây là tuệ quán thấy được sự diệt tận của nhân và quả (paccayato vaya dassana ñāṇa).
Khi nào thì các nhân nổi trội, vô minh, tham ái, thủ, và nghiệp sẽ tận diệt hoàn toàn không còn dư sót? Theo lời dạy của Đức Phật, các phiền não (hay còn gọi là lậu hoặc, hoặc gọi là kiết sử) sẽ tận diệt không còn dư sót khi quý vị chứng đắc A-la-hán. Bởi sự diệt tận hoàn toàn không còn dư sót của các phiền não mà nghiệp không thể cho quả nào sau đại Niết-bàn. Khi A-la-hán Đạo Tuệ tiêu diệt hoàn toàn năm nhân này không còn dư sót. Do nhờ sự diệt tận năm nhân không còn dư sót này mà sau khi tịch diệt Niết-bàn các ngũ uẩn chấm dứt hoàn toàn không còn dư sót. Quý vị phải cố gắng thấy sự tận diệt này. Bởi vì trong kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật có dạy rằng: “vị ấy an trú quán tánh diệt trên thân”. Quý vị không nên quên rằng “thân” ở đây có nghĩa là thân của sắc và thân của danh.
Giờ đây quý vị chưa đạt đạo quả A-la-hán. Khi nào quý vị sẽ đạt? Liệu nó là ngay trong đời sống này hay vào một đời sống nào đó trong tương lai? Nếu quý vị nỗ lực thực hành và có đủ ba-la-mật, quý vị có thể đạt được Đạo - Quả A-la-hán ngay trong đời này. Cho dù vậy, nó cũng được gọi là tương lai từ cái nhìn sự sinh và diệt trong từng sát-na, bởi vì hiện tại quý vị đang còn phàm nhân. Nếu quý vị đạt được Đạo - Quả A-la-hán trong một đời sống tương lai, thời gian từ đây đến đó cũng được gọi là tương lai của quý vị. Khi đạt đến Quả - Vị A-la-hán, tất cả các nhân sẽ tận diệt không còn dư sót. Quý vị nên cố gắng thấy sự diệt này. Và lại nữa khi quý vị nhập đại Niết-bàn, năm uẩn của quý vị sẽ tận diệt không còn dư sót. Quý vị cũng nên thấy sự tận diệt này. Khi quý vị thấy được hai loại tận diệt này, quý vị nên quán tưởng rằng do sự tận diệt của năm nhân không còn dư sót, năm uẩn cũng tận diệt không còn dư sót. Loại Tuệ quán này được gọi là Trí thấy biết sự diệt của các nhân và các quả.
Vì thế nếu hành giả muốn hiểu rõ mối quan hệ nhân duyên giữa nhân và quả bằng tuệ minh sát của hành giả, hành giả phải phân biệt danh-sắc quá khứ, hiện tại, và vị lai. Quý vị nghĩ rằng trong bài kinh Đại Niệm Xứ, Đức Phật chỉ dạy chúng ta về hiện tại phải không? Nếu hiểu những lời dạy này, chúng ta sẽ không nghĩ như vậy. Danh-sắc quá khứ, hiện tại và vị lai đều cần được phân biệt bằng tuệ minh sát. Chúng là các đối tượng của tuệ minh sát. Nếu không phân biệt danh sắc quá khứ, hiện tại và vị lai, hành giả không thể thấu hiểu được lý duyên khởi bằng tuệ minh sát của mình. Nếu không thấu hiểu lý duyên khởi, hành giả không thể thoát khỏi vòng luân hồi này. Hành giả không thể phân biệt được tánh sanh và diệt của nhân và quả. Hành giả không thể quán sát cả các nhân và các quả như là Vô thường, Khổ và Vô ngã. Nếu không thể quán sát như thế, hành giả không thể thoát khỏi vòng tử sanh luân hồi bởi vì Đức Phật có đề cập như vậy trong bài Kinh Mahānidāna.

Quán Cả Tánh Sanh và Tánh Diệt

Tiếp đến, Đức Phật có dạy: “Hay vị ấy sống quán cả tánh sanh và tánh diệt trên thân.” Điều này có nghĩa là quý vị phải quán sự sanh và sự diệt qua hình thức mối quan hệ nhân quả (hay còn gọi là hình thức duyên hệ) và qua hình thức hiện hữu theo từng sát-na. Quý vị nên phân biệt như thế nào? Chẳng hạn như, do sự sinh khởi của năm nhân, mà năm uẩn khởi sinh; do sự diệt tận năm nhân không còn dư sót, mà năm uẩn tận diệt hoàn toàn không còn dư sót. Đây là Trí Quán Tánh Sanh và Diệt Do Duyên. Ngay khi vừa sanh lên, các nhân đã diệt ngay, vì thế mà chúng là Vô thường. Ngay khi vừa sanh lên, các quả đã diệt ngay, vì thế mà chúng cũng là Vô thường. Biết được điều này chính là Trí Quán Tánh Sanh Và Diệt Theo Từng Sát-Na. Vào giai đoạn này, quý vị phải phân biệt cả các hiện tượng sanh và diệt do duyên và sự sanh và diệt theo từng sát-na một cách chi tiết.
Trước khi thấy được sự sanh và diệt rõ ràng từ sát-na này qua sát-na kế, nếu quán sát cả nhân và quả như là Vô thường, Khổ và Vô ngã, tuệ minh sát ấy được gọi Khảo Sát Trí (sammasanañāṇa). Khi quý vị thấy được sự sanh và diệt trong từng sát-na tâm một cách rõ ràng, tuệ minh sát ấy được gọi là Sanh Diệt Trí (Udayabbaya ñāṇa).

Sự Sanh Và Diệt Do Duyên Với Thiền Niệm Hơi Thở

Bây giờ tôi muốn đưa phần giải thích của chú giải về sự sanh và diệt này. Vì đây là phần về Niệm Hơi thở nên chú giải còn giải thích sự sanh và diệt do duyên chỉ cho phần Niệm hơi thở.
Vị ấy sống quán các hiện tượng sanh trên thân”. Giống như không khí đi vào và đi ra dựa bệ và ống thổi lò đốt của người thợ rèn, và với nỗ lực thích hợp, cũng vậy, dựa vào thân được sinh ra đây (hay tác sanh thân), ống mũi và tâm của hành giả, thân hơi thở vào và ra chuyển động tới lui. Tác sanh thân, v.v.. này là nguồn gốc. Khi một hành giả khi quán như thế an trú vào việc quán các hiện tượng sanh trên thân.
Quý vị có thể không hiểu ý nghĩa, tôi đoán vậy. Tôi muốn giải thích thêm chút. Khi quý vị trực nhận tứ đại trong hơi thở của mình, sẽ thấy nhiều tổng hợp sắc. Nếu phân tích tiếp chúng, quý vị sẽ thấy có chín yếu tố sắc chân đế (hay còn gọi là sắc cùng tột). Do đâu chúng sinh khởi? Nếu quý vị bỏ thân mình đi, liệu các hơi thở có tự sinh lên được chăng? Nếu không có thân của quý vị, hơi thở của quý vị không thể tự sinh khởi. Nếu phân tích thân mình, quý vị sẽ thấy có bốn loại sắc: sắc do nghiệp sanh, sắc do tâm sanh, sắc do vật thực sanh và sắc do thời tiết sanh. Bốn loại sắc này được gọi là thân được sanh (hay tác sanh thân). Nếu không có tác sanh thân, thân hơi thở của quý vị không thể khởi sinh. Vì thế nó là một nhân để hơi thở sinh lên. Nếu không có tâm, hơi thở cũng không thể khởi sinh. Vì thế tâm là một nhân nữa. Tác sanh thân giống như bệ của lò đốt, ống mũi giống như ống thổi của lò; và tâm giống như nỗ lực thích hợp. Tác sanh thân, tâm và ống mũi là các nhân cho thân hơi thở vào và ra sinh khởi. Quý vị cũng nên trực nhận tánh sanh. Trong số các nhân này, tâm là quan trọng nhất. Nhưng tâm khởi sinh nương vào tác sanh thân. Nên tất nhiên tác sanh thân là một nhân nữa. Đây là quan hệ nhân quả với hơi thở vào, hơi thở ra.
Tuy nhiên trực nhận quan hệ nhân quả của hơi thở bằng cách này cũng chưa đủ. Quý vị cần phải trực nhận các nhân của năm uẩn, ấy là vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp lực. Năm nhân này sản sinh ra năm thủ uẩn đời hiện tại. Theo cách tương tự năm nhân quá khứ trong đời quá khứ thứ nhì sản sinh ra năm thủ uẩn đời quá khứ thứ nhất. Năm nhân đời này sẽ sản sinh ra năm thủ uẩn trong đời sau. Quý vị nên trực nhận các nhân và các quả theo cách như thế này, quá khứ, hiện tại và tương lai.
Tiếp, chú giải có giải thích tánh diệt do duyên với hơi thở vào và hơi thở ra. “Hay vị ấy sống quán tánh diệt trong thân”. Dù cách gì đi nữa, không khí cũng không thể thổi vào được khi bệ lò thổi bị lấy đi, ống thổi bị hư bỏ và nỗ lực thích hợp không có mặt. Tương tự, khi tác sanh thân chấm dứt, ống mũi bị hư hoại, và tâm đã dừng hoạt động hẳn, hơi thở kết thúc. Do vầy, nhờ sự chấm dứt của tác sanh thân, ống mũi và tâm, mà có sự chấm dứt của việc thở.
Tiếp đến quý vị nên trực nhận rằng bởi có sự tận diệt không còn dư sót của năm nhân mà năm uẩn thủ cũng diệt tận hoàn toàn không còn dư sót trong tương lai. Nếu một người quán sát như vậy, chúng ta có thể nói rằng vị ấy sống quán tánh diệt hay quán sự diệt do duyên của thân. Quý vị cũng nên quán sát cả hai tánh sanh và tánh diệt trong thân. Rồi Đức Phật còn tiếp tục dạy giai đoạn thứ ba của thiền Vipassanā.

Giai Đoạn Thứ Ba Của Thiền Vipassanā

Chánh niệm về:"Chỉ có thân đây" được thiết lập trong vị ấy đến mức độ chỉ cần thiết dành cho chánh trí và chánh niệm xa hơn.
Niệm được thiết lập với hành giả nhờ sự suy xét thận trọng. Vị ấy nghĩ rằng: Chỉ có thân đây, ấy là, chỉ có danh-sắc, mà không có hữu tình, không có người, không có đàn bà, không có đàn ông, không có tự ngã, không có gì gắn liền với một tự ngã, không có “Tôi”, không có gì là của tôi, không có ai cả, và không có gì là thuộc về bất kỳ ai.”
Nó có nghĩa là gì? Đoạn kinh này liên hệ đến các tuệ minh sát cao hơn, từ Hoại diệt Trí cho đến Xả hành Trí. Nếu một hành giả quán sự sanh và tánh diệt của các hành như tôi đề cập phần trước, khi tuệ minh sát bén nhạy, vị ấy nên chỉ chú ý đến sự diệt. Dần dần hành giả không còn ghi nhận được giai đoạn sanh lên nữa, mà chỉ còn sự diệt đi. Lúc ấy, vị ấy sẽ không còn thấy các tổng hợp, mà chỉ còn là danh-sắc chân đế. Các pháp này luôn diệt đi. Lúc ấy vị ấy sẽ thấy không có hữu tình, không có người, không có đàn bà, không có đàn ông, không có tự ngã, không Tôi, không có gì là của Tôi, không ai và không có gì thuộc về một ai cả, là bởi vị ấy chỉ thấy toàn là sự diệt đi của danh-sắc chân đế. Vị ấy lúc này cũng không còn thấy danh-sắc dưới dạng các kalāpa.
Chánh niệm về: "Chỉ có thân đây" được thiết lập trong vị ấy đến mức độ chỉ cần thiết dành cho chánh trí và chánh niệm xa hơn.
Đoạn “đến mức độ chỉ cần thiết” ám chỉ mục đích. Điều này được nói đến: chánh niệm được thiết lập không phải vì mục đích nào khác. Gì là mục đích mà vì nó, chánh niệm được thiết lập? “Dành cho chánh trí và chánh niệm xa hơn” có nghĩa là nó chỉ để có được phương tiện chánh trí và chánh niệm ngày càng rộng hơn hay sâu hơn. Để gia tăng chánh niệm và trí tuệ thấu suốt là ý nghĩa.
Nếu một hành giả chỉ thấy sự diệt và quán cả danh và sắc cũng như minh sát tuệ này là Vô thường, Khổ và Vô ngã, từ từ minh sát tuệ của vị ấy sẽ trưởng thành. Kết quả là sự quân bình ngũ căn của vị ấy cũng trở nên chín mùi, lúc ấy vị ấy sẽ chứng đắc Đạo Quả Tuệ, vốn lấy Niết-bàn làm đối tượng. Nếu chứng ngộ Niết-bàn theo từng giai đoạn, cuối cùng vị ấy sẽ chứng đắc quả vị A-la-hán. Liên hệ Quả vị A-la-hán, Đức Phật giải thích như sau:
Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước vật gì ở trên đời.”
Và vị ấy sống không nương tựa” có nghĩa là vị ấy an trú tự do thoát khỏi sự nương tựa vào tham ái và tà kiến.
Không chấp trước vật gì ở trên đời”: liên hệ về sắc, thọ, hành, hay thức, vị ấy không nghĩ: đây là tự ngã của tôi, hay đây thuộc về tự ngã của tôi. Tại sao? Vì các đạo tuệ của vị ấy đã tận diệt hoàn toàn cả tham ái và tà kiến.
Đây là vắn tắt lộ trình bắt đầu từ Niệm Hơi thở cho đến thành tựu đạo quả A-la-hán. Nếu thực hành theo cách này một cách hệ thống, và nếu có đủ ba-la-mật, quý vị có thể chứng ngộ Niết-bàn ngay trong kiếp sống này.
Để kết luận phần Niệm hơi thở Ānāpānasati, Đức Phật dạy:
Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thân trên thân”.

Bốn Thánh Đế

Trong phần niệm hơi thở, Chánh niệm vốn khảo sát việc thở là Sự thật về Khổ (hay Khổ đế). Các đối tượng của niệm, năm thủ uẩn cũng được gọi là Sự thật về Khổ. Năm nhân: vô minh, tham ái, thủ, hành và nghiệp là Sự thật về Nguyên nhân của Khổ (Khổ tập đế). Sự không xảy ra của cả hai là Sự Thật về Khổ Diệt (Khổ Diệt Đế). Đây muốn nói đến Niết-bàn, tức Thánh Đế về Khổ Diệt. Khi quý vị huân tập và làm cho sung mãn Sanh Diệt Trí, quý vị phân biệt rằng do bởi sự tận diệt năm nhân không còn dư sót mà năm uẩn sẽ diệt tận hoàn toàn không còn dư sót sau khi nhập đại Niết-bàn. Hai loại tận diệt này được gọi là Sự thật về Khổ diệt, nhưng chỉ là Khổ diệt Đế hiệp thế. Nếu quý vị chứng ngộ Niết-bàn bằng Đạo Trí và Quả Trí, quý vị biết rõ về Thánh đế về Khổ diệt. Quý vị nên phân định hai loại Sự thật về Khổ Diệt này.
Thánh Đạo, vốn hiểu rõ Khổ, từ bỏ nhân sanh Khổ và lấy Niết-bàn làm đối tượng, là Sự Thật về Con đường (Đạo Đế). Ở đây, quý vị nên phân định rõ giữa Hiệp thế Đạo Trí và Xuất Thế Đạo Trí. Hiệp thế Đạo Trí vốn thấy rõ năm uẩn là tuệ minh sát về Khổ đế. Hiệp thế Đạo Trí vốn thấy nguyên nhân của Khổ là tuệ minh sát về Khổ tập. Hiệp thế Đạo Trí vốn thấy được rằng do nhờ sự tận diệt không còn dư sót của năm nhân mà năm uẩn sẽ diệt tận hoàn toàn không còn dư sót sau khi đại Niết-bàn là tuệ minh sát về Khổ diệt. Hiệp thế Đạo vốn là các chi phần của các tuệ minh sát vừa mới được đề cập. Chánh kiến là tuệ minh sát, Chánh tư duy, Chánh Tinh Tấn, Chánh niệm, và Chánh Định là đồng hành cùng Chánh Kiến.Trước khi hành thiền, quý vị cũng đã thọ trì Giới luật bao gồm Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Vì thế có cả thẩy tám chi phần của Hiệp thế Đạo. Có lúc, hành giả cần phải quán tuệ minh sát này là Vô thường, Khổ và Vô ngã. Lúc ấy, vị ấy cũng hiểu rõ hiệp thế đạo. Vậy nên Chánh Kiến Hiệp thế biết rõ Bốn Thánh Đạo Hiệp Thế.
Thánh Đạo Siêu thế lấy Niết-bàn làm đối tượng khởi sinh cùng Đạo Trí và Quả Trí. Lúc ấy, Chánh Kiến siêu thế biết rõ Niết-bàn, Chánh Tư Duy hướng tâm đến Niết-bàn, Chánh Niệm an trú trên Niết-bàn, Chánh Tinh tấn là nỗ lực chứng ngộ Niết-bàn, Chánh Định là sự tập trung vào Niết-bàn và Chánh ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng đều cùng có mặt. Khi một hành giả chứng ngộ Niết-bàn, tại sao Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng đều có mặt? Thánh Đạo Tuệ triệt tiêu các phiền não vốn có thể sinh ra tà ngữ, tà nghiệp và tà mạng, vì thế mà Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng là tự động có mặt.
Do vậy mà sau khi nỗ lực theo con đường Bốn Thánh Đế, một hành giả đoạn tận khổ đau và đạt đến bờ kia (tức Niết-bàn). Đây là lối vào Con đường giải thoát cho hành giả cống hiến mình cho việc thực hành Niệm hơi thở Ānāpānasati. Con đường hình thành và hoàn chỉnh Vipassanā dựa vào những đề mục thiền Định khác nên được hiểu theo cách tương tự.
Chính vì vậy, để đoạn tận khổ đau, chúng ta phải chứng ngộ Bốn Thánh Đế. Để chứng ngộ Bốn Thánh Đế, chúng ta phải hình thành và hoàn chỉnh thiền Định và Vipassanā một cách hệ thống theo lời dạy của Đức Phật.
Cầu chúc tất cả quý vị chứng ngộ Bốn Thánh Đế và đoạn tận khổ đau càng sớm càng tốt!
Thiền Sư Pa-Auk Tawya Sayādaw
Trung Tâm Thiền Pa-Auk Tawya
Mawlamyine, tiểu bang Mon, Myanmar



Không có nhận xét nào: